Cổng thông tin điện tử Sở công thương An Giang

ipv6 ready
BÁO CÁO TỔNG HỢP NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC THUỘC PHẠM VI QUẢN LÝ CỦA BỘ CÔNG THƯƠNG

BÁO CÁO TỔNG HỢP NGHIÊN CỨU CHUYÊN SÂU VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC THUỘC PHẠM VI QUẢN LÝ CỦA BỘ CÔNG THƯƠNG TRONG BỐI CẢNH THỰC THI CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CAM KẾT QUỐC TẾ TRONG CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN 

I. Khái quát chung về FTA thế hệ mới và sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
1. Khái niệm FTA thế hệ mới 
2. Nội dung cơ bản của FTA thế hệ mới 
3. Những điểm mới của FTA thế hệ mới so với các FTA truyền thống 
4. Tầm quan trọng của việc xây dựng văn bản pháp luật trong các FTA thế hệ mới 
5. Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
6. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
II. Khái quát chung về sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
1.  Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới của Bộ Công Thương
III. Thực tiễn xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
1. Những thuận lợi trong việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
2. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
CHƯƠNG II: RÀ SOÁT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN 
I. Rà soát các cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên cần nội luật hóa 
II. Đánh giá kết quả hoạt động xây dựng văn bản pháp luật để nội luật hóa cam kết tại một số FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên trong một số lĩnh vực của Bộ Công Thương 
Hiệp định CPTPP 
2. Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA 
3. Đánh giá chung về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA: 
CHƯƠNG III – ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 
I. Đề xuất chung 
1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước 
2. Về phía các cơ quan, đơn vị xây dựng văn bản để thực hiện cam kết 
3. Về kinh phí xây dựng các văn bản thực thi cam kết 
II. Các đề xuất cụ thể 
1. Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản thực thi các cam kết quốc tế 
2. Về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa 
3. Về phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI 
4. Về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định CPTPP 
5. Về hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng trong Hiệp định CPTPP 

 

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CAM KẾT QUỐC TẾ TRONG CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

I. Khái quát chung về FTA thế hệ mới và sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1. Khái niệm FTA thế hệ mới

- Hiệp định thương mại tự do - Free Trade Agreement (viết tắt là FTA) là các hiệp định hợp tác kinh tế được ký giữa hai hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản với phần lớn hoạt động thương mại đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên với nhau. Các rào cản thương mại có thể dưới dạng thuế quan, quota nhập khẩu, các hàng rào phi thuế quan khác như tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ, …
- Qua rà soát, nghiên cứu một số nguồn tài liệu cho thấy, thuật ngữ “thế hệ mới” được cho là sử dụng đầu tiên với các hiệp định thương mại tự do mà Liên minh châu Âu (EU) đàm phán với các đối tác thương mại của mình từ năm 2007. Nguyên nhân thúc đẩy EU thực thi chiến lược thương mại mới chính thức được công bố từ năm 2006 có thể xuất phát từ sự thiếu đồng thuận dẫn đến bế tắc trong các vòng đàm phán Doha từ năm 2001. Từ đó, EU cam kết phát triển và nâng cao quan hệ thương mại song phương với các đối tác nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thương mại của EU trên toàn cầu. Từ năm 2007, EU bắt đầu khởi động các vòng đàm phán các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” với các đối tác thương mại bao gồm Hàn Quốc, Ấn Độ và ASEAN với cách tiếp cận toàn diện, bao gồm nhiều nội dung đổi mới về đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, hay phát triển bền vững.
Kể từ đó, thuật ngữ “thế hệ mới” được sử dụng một cách tương đối nhằm phân biệt các FTA được ký kết với phạm vi toàn diện hơn so với khuôn khổ tự do hoá thương mại được thiết lập trong các hiệp định WTO hay các hiệp định FTA truyền thống. Ngoài các hiệp định thương mại tự do của EU với các đối tác thương mại như FTA EU-Hàn Quốc, EU-Ấn Độ, EU-Nhật Bản, EU-ASEAN, … các hiệp định thương mại tự do được đàm phán sau giữa nhiều đối tác thương mại lớn như Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP), … cũng áp dụng cách tiếp cận toàn diện này, và đều được coi là các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới”.

2. Nội dung cơ bản của FTA thế hệ mới

Mặc dù không có quy định cụ thể về các nội dung cơ bản của FTA, nhưng qua rà soát nội dung trong các FTA thì có thể thấy 1 FTA (bao gồm FTA truyền thống và FTA thế hệ mới) thường bao gồm các nội dung chính sau đây:  
FTA thế hệ mới có nội dung tương tự như các FTA truyền thống nhưng có bổ sung thêm các nội dung khác biệt với FTA truyền thống. 
Thứ nhất là những quy định về việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Theo đó, mỗi quốc gia tham gia ký thỏa thuận FTA đều phải cam kết cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan. Đồng thời, cho phép các hàng hóa dịch vụ giữa các nước thành viên được xuất nhập khẩu.
Thứ hai là quy định danh mục những mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế quan. Loại hàng hóa dịch vụ được đưa vào ký kết sẽ phụ thuộc vào kết quả của hoạt động đàm phán. Có một số loại thuế nhạy cảm sẽ cắt giảm chậm hơn hoặc không được cắt giảm.
Thứ ba là quy định về thời gian cắt giảm thuế xuất nhập khẩu. Các Hiệp định thương mại tự do phải có phần mục nội dung quy định rõ ràng về khoảng thời gian hay lộ trình áp dụng cắt giảm thuế. FTA thường có thời gian kéo dài dưới 10 năm.
Thứ tư là quy định về quy tắc xuất xứ. Đây là quy định hết sức quan quan trọng và không thể thiếu trong FTA. Mỗi loại hàng hóa dịch vụ khác nhau sẽ có những quy định về việc mức cắt giảm thuế khác nhau. Những mặt hàng được sản xuất ở các nước tham gia vào thỏa thuận FTA sẽ được nhận ưu đãi lớn hơn những mặt hàng sản xuất ở các nước khác.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, các FTA thế hệ mới còn bao gồm các nội dung sau:
- Nội dung “phi thương mại” như lao động, phát triển bền vững, môi trường, quản trị tốt…Trong bối cảnh mới hiện nay, các nội dung này được các quốc gia quan tâm vì có ảnh hưởng lớn đến vấn đề thương mại của các nước.
- Nội dung về mua sắm công, đầu tư, cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, thương mại điện tử.
- Nội dung về sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, thương mại hàng hóa, các quy tắc xuất xứ, …sẽ có mức độ cam kết sâu rộng hơn, có thể cam kết giảm thuế gần như về 0% đối với hầu hết các hàng hóa và dịch vụ mà không có loại trừ.

3. Những điểm mới của FTA thế hệ mới so với các FTA truyền thống

Để chỉ ra những điểm mới của các FTA thế hệ mới so với các FTA truyền thống, nội dung của các loại FTA sẽ được thể hiện trong bảng sau:

STT Tiêu chí so sánh FTA truyền thống FTA thế hệ mới
1 Thời gian xuất hiện Được đàm phán, ký kết trong giai đoạn đầu Được đàm phán, ký kết trong thời gian gần đây
2 Mức độ cam kết - thường có phạm vi hẹp, mức độ tự do hóa hạn chế
- Thường cam kết xóa bỏ thuế quan khoảng 70-80% dòng thuế
- có phạm vi rộng, mức độ tự do hóa mạnh, bao gồm cả nội dung “phi thương mại”
- thường là xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 95-100% số dòng thuế, mở cửa mạnh nhiều lĩnh vực dịch vụ, mở cửa mua sắm công
3 Nội dung cam kết - Thường chỉ bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
- Một số ít có cam kết về thương mại dịch vụ, các nguyên tắc chung về đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh…chung chung với mức ràng buộc ở mức độ thấp
 
- Bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực (hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường…), trong đó mức độ cam kết mở cửa mạnh.
- đặt ra nhiều tiêu chuẩn cao trong các vấn đề quy tắc
4 Số lượng Nhiều Ít (hiện nay mới có khoảng 3 FTA thế hệ mới CPTPP, EVFTA, UKVFTA)

 
Để hiểu rõ hơn về các cam kết trong các FTA thế hệ mới như nêu ở bảng so sánh trên, ta cùng tìm hiểu về cam kết trong một số Hiệp định: 
Thứ nhất, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): 
Các cam kết về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan nhập khẩu trong CPTPP được chia làm ba nhóm chính:
(1) Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay: Thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
(2) Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình: Thuế nhập khẩu sẽ được đưa về 0% sau một khoảng thời gian nhất định (lộ trình). Trong CPTPP, phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên trong một số trường hợp, lộ trình có thể là trên 10 năm. Cá biệt, có một số rất ít dòng thuế có lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu trên 20 năm.
(3) Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ): Đối với nhóm hàng hóa này, thuế nhập khẩu chỉ xóa bỏ hoặc cắt giảm với một khối lượng hàng hóa nhất định (gọi là xóa bỏ/giảm thuế trong hạn ngạch). Với khối lượng nhập khẩu vượt quá lượng hạn ngạch trong biểu cam kết, mức thuế nhập khẩu áp dụng sẽ cao hơn, hoặc không được hưởng ưu đãi.
Còn cam kết về thuế nhập khẩu của các nước CPTPP đối với Việt Nam như sau: 
(1) Ca-na-đa cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế và 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Ca-na-đa ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Trong đó, 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản và 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
(2) Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với 86% số dòng thuế (tương đương 93.6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản), và gần 90% số dòng thuế sau 5 năm. Trong hiệp định CPTPP, Nhật Bản lần đầu tiên cam kết xoát bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu cho đại đa số nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ hai, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA):
- Về phía Việt Nam, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch xuất khẩu của EU ngay khi Hiệp định có hiệu lực. 
Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ này tương ứng là 98,3% số dòng thuế và 99,8% kim ngạch xuất khẩu của EU.
- Về phía EU, theo cam kết, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Tiếp đó sau 07 năm, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại của Việt Nam, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan (TRQ) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
Như vậy, có thể nói 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn. Cho đến nay, đây là mức cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho ta trong các hiệp định FTA đã được ký kết. 

4. Tầm quan trọng của việc xây dựng văn bản pháp luật trong các FTA thế hệ mới

4.1. Quy định pháp luật trong nước về việc thực hiện các FTA và việc nội luật hóa các cam kết
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước như sau:
-  Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
- Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Trong các Tờ trình đề xuất ký điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất ký điều ước quốc tế phải có nội dung đánh giá về việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế. 
Đồng thời, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đều quy định pháp luật trong nước phải phù hợp với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Điều đó được thể hiện ngay trong các điều quy định về việc xây dựng văn bản thực thi các điều ước quốc tế, cụ thể: 
Nguyên tắc chung trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Đồng thời, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật xây dựng phải đảm bảo tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên cũng là 1 trong những căn cứ để xây dựng các văn bản. Ngoài ra, tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng là 1 nội dung thẩm định trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. 
Theo đó, tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đều thống nhất quan điểm chung trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương đã đưa ra nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương như sau:
“1. Nhà nước quản lý ngoại thương theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Bảo đảm minh bạch, công khai, bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu, gắn với quản lý nhập khẩu.
3. Bảo đảm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Qua những phân tích nêu trên, cho thấy việc thực thi hay nội luật hóa các điều ước quốc tế là quan điểm chung, thống nhất, xuyên suốt từ Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
4.2. Thực tiễn hoạt động nội luật hóa các cam kết trong các FTA thế hệ mới thời gian qua 
Xây dựng văn bản QPPL là hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo lập hệ thống quy tắc xử sự; duy trì và bảo đảm trật tự, kỉ cương của đời sống xã hội và quản lý của nhà nước. Pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong quản lý, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển khi có được một hệ thống pháp luật có chất lượng. Nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định pháp luật nhiều khi không thể thực hiện được trên thực tế. Nhận thức được ý nghĩa, vai trò quan trọng đó, công tác xây dựng văn bản pháp luật luôn được Quốc hội, Chính phủ và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là việc nội luật hóa các quy định trong các cam kết quốc tế, các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên như CPTPP, EVFTA, UKVFTA…
Trên cơ sở các quy định pháp luật trong nước về việc thực hiện các FTA và sự cần thiết của việc nội luật hóa các cam kết nêu ở trên, tương ứng với mỗi FTA thế hệ mới, Việt Nam đều ban hành Kế hoạch thực thi Hiệp định và đặc biệt chú trọng đối với công tác xây dựng pháp luật, thể chế để thực thi các cam kết trong từng Hiệp định. 
Để thực hiện nhiệm vụ được giao, kịp thời nội luật hóa các cam kết quốc tế, đảm bảo tính khả thi khi các cam kết có hiệu lực với Việt Nam, các Bộ ngành, trong đó có Bộ Công Thương đã khẩn trương xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và cam kết quốc tế. 
Từ cơ sở pháp lý và thực tiễn nêu trên cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng văn bản pháp luật trong các FTA thế hệ mới.  

5. Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

Với chủ trương đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đã tham gia và ký kết gần 20 FTA với các nước. Điều đó đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường truyền thống, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào các thị trường tiềm năng trên thế giới, cũng như giúp cho người tiêu dùng Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn hàng phong phú, chất lượng với giá cả hợp lí…
Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới có tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, được thể hiện qua các khía cạnh:
- Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu: Tự do hóa thương mại nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng có tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Những quy định trong các FTA này buộc nền kinh tế thành viên, trong đó có Việt Nam, phải tái cấu trúc, mở ra những thị trường mới và tạo sức hút về hàng hóa. Trong thời gian tới, khi việc thực hiện cắt giảm thuế quan theo các FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu thì xuất khẩu của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh do: (i) Sự nỗ lực của các bộ, ngành liên quan trong việc phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 7-8% mà Quốc hội đề ra; (ii) Khi thuế suất giảm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như: Nguyên phụ liệu dệt may, chất dẻo, ngô, cao su…; (iii) Hiệp định CPTPP và EVFTA đi vào thực thi sẽ là động lực cho xuất khẩu của Việt Nam.
- Tác động tích cực đến sản xuất trong nước, nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước có giá thấp hơn, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm. Từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất khẩu. 
- Môi trường kinh doanh minh bạch hơn, thuận lợi hơn và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Các FTA thế hệ mới sẽ giúp Việt Nam kiện toàn hơn bộ máy nhà nước, theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường trách nhiệm, kỷ cương kỷ luật của cán bộ, từ đó, hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam.
- Thu hút đầu tư nước ngoài: Trong các FTA thế hệ mới đều có các cam kết đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh hơn. 
Với những tác động tích cực nêu trên, để đảm bảo đáp ứng và phù hợp với cam kết, Việt Nam cần phải thay đổi, cải tiến các chính sách và pháp luật sao cho phù hợp với các thông lệ thương mại quốc tế. Việt Nam cần hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Quá trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đã có những tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam. Công tác xây dựng thể chế, chính sách dần được hoàn thiện, giúp nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến rõ nét. Hội nhập quốc tế góp phần mở rộng thị trường, tăng lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nước trong khu vực; qua đó, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có chuyển biến về chất. 
Để các tận dụng được hết các tác động tích cực của các FTA thế hệ mới đối với Việt Nam thì việc giúp doanh nghiệp hiểu, nắm rõ các cam kết là một hoạt động cực kỳ quan trọng, không thể thiếu của các cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời, nó cũng là công cụ giúp các cơ quan quản lý nhà nước quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh. Do đó, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch nhằm thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập các FTA thế hệ mới. Tuy nhiên, việc cải cách các thể chế chính trị, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cần phải đảm bảo tính đồng bộ, không tạo ra các xung đột pháp lí và mâu thuẫn với chính sách, có hiệu quả và duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, hạn chế ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động, cũng như các nhà đầu tư mới trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng phải tăng cường năng lực của các cơ quan quản lí nhà nước, các cơ quan thực thi, đặc biệt là hải quan và ngành tòa án là những người có năng lực chuyên môn cao và được trang bị những kĩ năng cần thiết về thông tin các quy định FTA thế hệ mới, các điều kiện, tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế… Có như vậy, mới có thể tận dụng được thời cơ của các FTA thế hệ mới, từ đó thúc đẩy và nâng tầm giá trị nền kinh tế Việt Nam trên thị trường quốc tế.

6. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

6.1. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP tại Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2019 nhằm phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức liên quan, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành và các biện pháp khác triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này.
- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện: Quyết định số 121/QĐ-TTg không giao cụ thể. 
6.2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi EVFTA theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTG ngày 06/8/2020 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện EVFTA nhằm phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức liên quan, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành và các biện pháp khác triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này.
- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện: Quyết định số 1201/QĐ-TTg không giao cụ thể. 
6.3. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi UKVFTA theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 721/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2021 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện UKVFTA nhằm phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức liên quan, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành và các biện pháp khác triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này. 

- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện:

STT Nội dung công việc Cơ quan chủ trì Cơ quan phối hợp Sản phẩm Thời gian hoàn thành
1 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc chỉ định cơ quan đầu mối để thực thi UKVFTA cũng như các Chương của Hiệp định; cơ quan đầu mối tham gia Ủy ban thương mại, các Ủy ban chuyên ngành theo các chương; cơ quan đầu mối về thông tin liên lạc giữa Việt Nam và Vương quốc Anh về mọi vấn đề của Hiệp định; cơ quan điều phối việc xây dựng đề xuất và tiếp nhận các hỗ trợ kỹ thuật từ Vương quốc Anh trong quá trình thực thi Hiệp định. Bộ Công Thương Các bộ, ngành có liên quan Nghị định của Chính phủ/ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 2021

 

II. Khái quát chung về sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1.  Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

Việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế (hay gọi nội luật hóa) có thể được hiểu chính là quá trình đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Theo đó, sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên tương tự như sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên đã nêu ở phần trên. Các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương là đa ngành và có ảnh hưởng trực tiếp đến các cam kết trong các FTA (như hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, quản lý nhập khẩu hàng tân trang, phòng vệ thương mại, chứng nhận xuất xứ hàng hóa…), ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp. Việc xây dựng văn bản nhanh sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được các ưu đãi trong từng FTA, từ đó giúp cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuận lợi hơn.

2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới của Bộ Công Thương

2.1. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP của Bộ Công Thương
- Mục tiêu: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 121/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Bộ Công thương với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP. Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 456/QĐ-BCT ngày 01 tháng 03 năm 2019 về Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) của Bộ Công Thương.
- Những nhiệm vụ chủ yếu: 
Quyết định số 456 đã nêu rõ Kế hoạch thực CPTPP của Bộ Công thương nhiều nội nội dung, trong đó, nhiệm vụ hoàn thiện kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP của Bộ Công thương là vấn đề tiên quyết, đặt cơ sở và nền móng cho các hoạt động đáp ứng theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Theo đó, lộ trình thực hiện kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP được chia làm hai giai đoạn: 
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ năm 2019 với nhiệm vụ tập trung hoàn tất các công việc liên quan đến ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện Hiệp định CPTPP; 
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 2020 đến 2025, tầm nhìn đến năm 2035 với nhiệm vụ tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến việc sửa đổi và ban hành văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện Hiệp định CPTPP. 
Bộ Công thương đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc thực hiện kế hoạch xây dựng VBPL thực thi CPTPP theo các mốc thời gian cụ thể:
- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện:

SỐ TT NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỜI GIAN THỰC HIỆN NGUỒN KINH PHÍ
1 Xây dựng Luật sửa đổi một số Luật để thực thi Hiệp định CPTPP. Các Luật được sửa đổi gồm có: Luật An toàn thực phẩm 2010; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010; và Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (đối với những cam kết phải thực hiện ngay khi Hiệp định có hiệu lực) Vụ Pháp chế Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý I-II/2019 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
2 Thông tư hướng dẫn nội dung các biện pháp phòng vệ thương mại trong Hiệp định CPTPP Cục Phòng vệ thương mại Vụ Pháp chế, Cục XNK và các đơn vị liên quan Quý III/2019 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
3 Thông tư quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định CPTPP Cục XNK Vụ Pháp chế, Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý I/2019 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương

 

 
2.2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi EVFTA của Bộ Công Thương
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 1201/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Minh châu Âu (EVFTA), Bộ Công thương với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Kế hoạch thực hiện Hiệp định EVFTA. Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 2091/QĐ-BCT ngày 06 tháng 8 năm 2020 về Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Minh châu Âu (EVFTA) của Bộ Công Thương.

SỐ TT NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỜI GIAN THỰC HIỆN NGUỒN KINH PHÍ
1 Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Hiệp định EVFTA về phòng vệ thương mại Cục Phòng vệ thương mại Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý III-IV/2020 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương

- Các văn bản cần nội luật hóa theo Kế hoạch, thời gian thực hiện: 

 

 

 

 
2.3. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi UKVFTA của Bộ Công Thương
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 721/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA), Bộ Công thương với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Kế hoạch thực hiện Hiệp định UKVFTA. Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 1449/QĐ-BCT ngày 24 tháng 5 năm 2021 về Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA) của Bộ Công Thương.
- Các văn bản cần nội luật hóa theo Kế hoạch, thời gian thực hiện: 

 

SỐ TT NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỜI GIAN THỰC HIỆN NGUỒN KINH PHÍ
1 Xây dựng Thông tư về quy tắc xuất xứ thực thi UKVFTA Cục Xuất nhập khẩu Các đơn vị liên quan Quý II - III/2021 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
2 Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Hiệp định UKVFTA về phòng vệ thương mại Cục Phòng vệ thương mại Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý II - IV/2021 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
 

 

III. Thực tiễn xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1. Những thuận lợi trong việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1.1. Chỉ đạo kịp thời của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc nội luật hóa các cam kết quốc tế
Để nội luật hóa các cam kết trong CPTPP, EVFTA, UKVFTA, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 phê chuẩn CPTPP. Để thực hiện các biện pháp chỉ đạo, điều hành nhằm triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định CPTPP, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP và Quyết định số 734/QĐ-TTg chỉ định các  các cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định CPTPP. Việc chỉ đạo kịp thời trong việc sửa đổi các văn bản này đã giúp hệ thống văn bản pháp luật trong nước tương thích với các quy định, cam kết trong thực thi CPTPP, đồng thời, việc lựa chọn định hướng chính sách, cũng như công tác tổng hợp, thu thập đầy đủ các thông tin nhiều chiều về tất cả các khía cạnh liên quan tới quy định (cả về pháp lý và thực tiễn, cả tổng kết thực tiễn trong nước và các xu hướng thế giới)… đã được xử lý một cách nghiêm túc, cẩn trọng.
1.2. Nguồn lực thực hiện việc nội luật hóa
Để thực hiện việc rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực thi cam kết quốc tế, các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ Việt Nam đã quy định và phân công cụ thể đối với từng cơ quan có liên quan phụ trách việc nội luật hoá các cam kết tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tại văn bản phê chuẩn Hiệp định CPTPP và EVFTA, Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo thẩm quyền tiến hành rà soát các dự án luật và các văn bản pháp luật khác để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định. Đồng thời, Quốc hội cũng giao Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Hiệp định; phê duyệt, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan ở trung ương và địa phương triển khai kế hoạch thực hiện Hiệp định; chuẩn bị nguồn lực để bảo đảm tận dụng và phát huy các cơ hội, lợi thế mà Hiệp định đem lại; xây dựng, triển khai hiệu quả các biện pháp phòng ngừa và xử lý những tác động bất lợi có thể phát sinh trong quá trình thực hiện Hiệp định.
Đối với Hiệp định UKVFTA, Thủ tướng Chính phủ cũng giao các Bộ, ngành liên quan tiếp tục thực hiện rà soát pháp luật trong quá trình thực thi Hiệp định và báo cáo Chính phủ nếu có đề xuất sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật khác để phù hợp với yêu cầu của Hiệp định; Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật và trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành theo đúng với lộ trình đã quy định của UKVFTA. Đối với các văn bản cần được ban hành và có hiệu lực ngay khi Hiệp định có hiệu lực chính thức, áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật số 80/2015/QH13) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 63/2020/QH14), đồng thời có hướng dẫn kịp thời về việc thực thi Hiệp định cho các đối tượng có liên quan.
Như vậy, tại các văn bản chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền của Việt Nam, việc thực thi các cam kết tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã được bố trí, phân bổ nguồn lực hợp lý theo ngành, lĩnh vực, thẩm quyền của các cơ quan có liên quan, từ trung ương đến địa phương, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và toàn diện việc nội luật hoá các cam kết tại các Hiệp định.
1.3. Quy trình, thủ tục xây dựng văn bản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
Việc xây dựng và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật thường được xem xét trên cơ sở bảo đảm tính tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Việt Nam có thể tham gia. Điều này được thấy qua nội dung của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Điều ước quốc tế quy định về thẩm định các văn bản liên quan. Theo đó, ngay từ khâu đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định cũng quy định căn cứ đề nghị xây dựng phải dựa trên cam kết quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đối với quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo có nhiệm vụ nghiên cứu điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đồng thời, trong quá trình thẩm định đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, một trong các nội dung mà cơ quan chủ trì thẩm định phải tập trung thẩm định là tính tương thích với điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục xây dựng văn bản nội luật hoá còn có những thuận lợi sau:
Thứ nhất, quy trình xây dựng VBQPPL bị ràng buộc bởi nhiều quy định khác nhau và trong nhiều trường hợp không thể thực hiện sớm như mong muốn. Trong khi đó, thời hạn để các cam kết FTA có hiệu lực lại được xác định cố định, không thể điều chỉnh tùy nghi như các chương trình xây dựng pháp luật nội địa thông thường. Mặc dù vậy, công tác chuẩn bị về mặt nội dung lại có thể được thực hiện rất sớm. Cụ thể, nội dung các cam kết phải thực thi đều đã xác định ngay khi công bố văn kiện chính thức. Cũng như vậy, các khía cạnh không tương thích của các quy định nội địa cũng đã được nhận diện (ít nhất là sau khi rà soát pháp luật phục vụ cho việc phê chuẩn, thậm chí đa phần có thể đã được xác định ngay sau khi việc đàm phán cam kết đó hoàn tất). Do đó, cơ quan soạn thảo có đủ điều kiện để chuẩn bị trước về nội dung dự kiến của quy định “nội luật hóa”, qua đó rút ngắn tối đa thời gian dành cho việc soạn thảo chính thức. Sau khi có quyết định chính thức về việc bắt đầu quy trình soạn thảo quy định liên quan, cơ quan soạn thảo có thể đã có ngay dự thảo ban đầu, từ đó có thể triển khai ngay các công việc tiếp theo như tham vấn ý kiến, tiếp thu, thẩm định….
Thứ hai, minh bạch là nguyên tắc quan trọng được nhấn mạnh trong hoạt động xây dựng VBQPPL của Việt Nam (Điều 5.3 Luật Ban hành VBQPPL) cũng như trong CPTPP (Mục B Chương 26 CPTPP). Từ góc độ nội dung, yêu cầu minh bạch đòi hỏi các quy định phải được trình bày một cách rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ, cho phép hiểu đúng và chỉ theo một nghĩa thống nhất và duy nhất. Từ góc độ quy trình, thủ tục, yêu cầu minh bạch còn thể hiện ở việc các bước trong thủ tục phải được thiết kế chặt chẽ, có thời hạn chính xác, với các điều kiện/tiêu chí rõ ràng, cụ thể, hạn chế tối đa không gian quyết định có tính định tính của cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm sự tuần tự, thống nhất giữa các bước với nhau.
Thứ ba, thực hiện tham vấn doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động XDPLVề mặt pháp lý, theo quy định tại Luật Ban hành VBQPPL, việc tham vấn, lấy ý kiến đối tượng chịu tác động là yêu cầu bắt buộc trong quy trình soạn thảo các VBQPPL. Ngoài ra, cũng theo quy định của pháp luật về ban hành VBQPPL, các dự thảo VBQPPL có liên quan tới doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh cần được gửi lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp thông qua đầu mối là VCCI. Đây được xem là quy định bổ sung nhằm bảo đảm rằng việc tham vấn doanh nghiệp của cơ quan soạn thảo được cộng đồng doanh nghiệp biết đến một cách rộng rãi và được triển khai qua hành động chủ động thông qua các kênh/mạng lưới của VCCI - tổ chức quốc gia đại diện cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, việc tham vấn VCCI cũng được xem là một tiêu chí bổ sung để đánh giá hiệu quả thực chất của hoạt động tham vấn trong soạn thảo các VBQPPL thực thi các Hiệp định.

2. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

2.1. Khó khăn, vướng mắc về quy trình, thủ tục xây dựng văn bản thực thi FTA
Thực tiễn ban hành các VBQPPL thực thi các cam kết tại điều ước quốc tế cho thấy hoạt động nội luật hóa vẫn còn bị chậm so với thời hạn cam kết. Đây là các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng, yêu cầu cao nên khối lượng công việc nội luật hóa cũng đặt ra nhiều thách thức. Bên cạnh đó, đối với các văn bản thực thi các Hiệp định, thời điểm có hiệu lực của văn bản bị ràng buộc bởi cam kết tại Hiệp định đó, cụ thể như sau: 
• Về nguyên tắc, do các cam kết liên quan đều có hiệu lực ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các quy định “nội luật hóa” trong các văn bản này đều phải được ban hành để có hiệu lực từ ngày này; 
• Trên thực tế, do tất cả các văn bản này đều được soạn thảo, ban hành và/hoặc có hiệu lực sau ngày Hiệp định có hiệu lực. Yêu cầu của Hiệp định về thời hạn đòi hỏi các quy định “nội luật hóa” cam kết trong trường hợp này có thể coi là được tuân thủ nếu văn bản cho phép áp dụng hồi tố trở về trước.
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), việc soạn thảo và ban hành các VBQPPL đòi hỏi phải trải qua các trình tự, thủ tục từ lập đề nghị, soạn thảo, lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động của VBQPPL, thẩm định, trình ký ban hành… Trong đó, đối với một số quy trình như lấy ý kiến đối tượng chiụ tác động của VBQPPL thì Luật Ban hành VBQPPL quy định thời hạn lấy ý kiến là 60 ngày (trừ trường hợp thực hiện thủ tục rút gon); hay thời hạn thẩm định của Bộ Tư pháp là 15 ngày đối với Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 ngày đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình. Điều này dẫn đến độ trễ nhất định trong soạn thảo và ban hành các văn bản thực thi cam kết. Xét từ góc độ lợi ích thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam, việc chậm ban hành các văn bản này vẫn gây ra những ảnh hưởng nhất định tới các doanh nghiệp, làm hạn chế khả năng tận dụng các lợi ích mà các Hiệp định lẽ ra có thể mang lại cho họ trong giai đoạn đầu thực thi Hiệp định.
Ngoài ra, Điều 152 Luật Ban hành QVBPPL quy định về các trường hợp áp dụng hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
1. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước.
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:
a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”.
Như vậy, để áp dụng hiệu lực trở về trước, các cơ quan chủ trì soạn thảo cần đánh giá nội dung đó trên cơ sở: Phải đảm bảo lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, đánh giá tác động của việc quy định hiệu lực trở về trước đó với ngân sách nhà nước, với doanh nghiệp.  
2.2. Khó khăn, vướng mắc về nội dung của văn bản nội luật hóa
a) Về căn cứ pháp lý ban hành VBQPPL
Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Ban hành VBQPPL “Căn cứ ban hành văn bản là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực hoặc đã được công bố hoặc ký ban hành chưa có hiệu lực nhưng phải có hiệu lực trước hoặc cùng thời điểm với văn bản được ban hành. Căn cứ ban hành văn bản bao gồm văn bản quy phạm pháp luật quy định thẩm quyền, chức năng của cơ quan ban hành văn bản đó và văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn quy định nội dung, cơ sở để ban hành văn bản”, theo đó, điều ước quốc tế không được coi là văn bản quy phạm pháp luật nên không thể là căn cứ để ban hành văn bản QPPL. Tuy nhiên trên thực tế, việc đưa các cam kết quốc tế vào căn cứ ban hành là cần thiết để tạo thuận lợi cho việc làm rõ mục đích, cơ sở và sự cần thiết của việc ban hành văn bản.
b) Về thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đối với việc xây dựng và ban hành VBQPPL để thực thi cam kết
Về nguyên tắc, do các cam kết liên quan đều có hiệu lực ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các quy định “nội luật hóa” trong các văn bản này đều phải được ban hành để có hiệu lực từ ngày này. Theo quy định tại khoản 3 Điều 146 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, sửa đổi năm 2020 quy định một trong trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn: “Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; trường hợp cần ban hành ngay văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Tuy nhiên, Điều 147 và 148 Luật Ban hành VBQPPL không quy định thẩm quyền quyết định trình tự, thủ tục xây dựng đối với trường hợp tại khoản 3 Điều 146 nêu trên. Đồng thời, Nghị định 59/2024/NĐ-CP, Nghị định 154/2020/NĐ-CP và Nghị định 34/2016/NĐ-CP không hướng dẫn nội dung này. 
Điều này dẫn đến khó khăn trong việc phải kịp thời ban hành Thông tư có hiệu lực cùng thời điểm với cam kết trong các FTA do từ khi hoàn thành các thủ tục phê duyệt trong nước, mới có cơ sở để đề xuất xây dựng các văn bản nội luật hóa. Việc xây dựng vẫn cần phải tuân thủ đầy đủ quy trình, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên thời gian có hiệu lực không đảm bảo theo cam kết. 
c) Về quy định thủ tục hành chính trong các VQBPPL thực thi cam kết
Theo khoản 4 Điều 14 Luật Ban hành VBQPPL, một trong các hành vi bị nghiêm cấm là quy định thủ tục hành chính trong thông tư, thông tư liên tịch, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật này. Tuy nhiên, việc cấm thủ tục hành chính tại các văn bản QPPL do các Bộ, ngành, địa phương ban hành có thể làm chậm, ảnh hưởng đến quá trình sửa đổi thủ tục hành chính để thực hiện các điều ước quốc tế và các phát sinh trong việc thực thi các Hiệp định thương mại tự do FTA.
d) Về ngôn ngữ trong VBQPPL thực thi cam kết
Thực tế cho thấy việc soạn thảo các VBQPPL thực thi cam kết hướng tới các quy định bám sát ngôn ngữ đàm phán, điều này gây khó khăn của doanh nghiệp trong việc hiểu và áp dụng các quy định tại các VBQPPL nêu trên. Ví dụ như việc hiểu quy tắc xuất xứ CPTPP trong Thông tư 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có nhiều điểm mới so với quy tắc xuất xứ trong các FTA trước đây mà doanh nghiệp đã quen thuộc dẫn đến có không ít doanh nghiệp mặc dù đã được đọc, nghiên cứu quy tắc xuất xứ trong Thông tư 03/2019/TT-BCT nhưng chưa hiểu được nội dung hay cách thức áp dụng các quy định này. 
đ) Về phạm vi điều chỉnh của các VBQPPL thực thi cam kết
Về cơ bản, các quy định của FTA có phạm vi áp dụng giới hạn cho các giao dịch thương mại giữa Việt Nam với các đối tác mà Việt Nam đã ký kết FTA. Do đó, trong quá trình nội luật hóa, nếu nhà làm luật không xác định rõ phạm vi áp dụng của văn bản nội luật hóa thì có thể dẫn đến nguy cơ mở rộng phạm vi áp dụng của các quy định trong FTA cho cả những giao dịch thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia không phải là thành viên của FTA đó.
2.3. Khó khăn, vướng mắc về nguồn lực thực hiện việc xây dựng văn bản 
- Về nguồn lực:
Bộ Công Thương không có cán bộ chuyên trách về công tác xây dựng VBQPPL, công tác kiểm tra VBQPPL và công tác rà soát, hệ thống hoá VBQPPL. Cán bộ thực hiện các công tác này đều kiêm nhiệm. Trong khi đó, các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng, yêu cầu cao, nhiều nội dung mang tính kỹ thuật nên khối lượng công việc nội luật hóa cũng đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi nguồn nhân lực có sự am hiểu, kinh nghiệm, đã trải qua quá trình đàm phán đồng thời nắm rõ các quy định pháp luật có liên quan nhằm thực thi cam kết.
Ngoài ra, quá trình nội luật hoá đòi hỏi sự tham gia và đồng hành của nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phối hợp của các cơ quan có liên quan còn chưa chặt chẽ, việc tham gia góp ý vào dự thảo VBQPPL còn chưa mang tính chuyên sâu, phần lớn chưa đảm bảo thời gian lấy ý kiến ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng VBQPL thực thi cam kết. Việc lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp nhiều khi chưa toàn diện, nhiều doanh nghiệp là đối tượng hưởng lợi chưa được tiếp cận đến dự thảo VBQPPL. Kể cả đối với quy trình thẩm định VBQPPL cũng chưa đảm bảo thời hạn hoàn thành, chưa đáp ứng tiến độ xây dựng và ban hành văn bản.
Có thể thấy rằng sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao cũng như các Bộ chuyên ngành để đảm bảo quá trình chuyển hóa FTA không gây ra khó khăn, cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp, nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như xem xét chuyển hóa FTA theo hướng cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam không phải là một công việc đơn giản.
- Về kinh phí: 
Kinh phí hỗ trợ công tác xây dựng VBQPPL còn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đặc biệt trong việc bố trí kinh phí để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xây dựng VBQPPL, lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản.
Trong quá trình xây dựng VBQPPL, hoạt động rà soát, lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân là đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của VBQPPL là rất cần thiết và quan trọng, có vai trò quyết định đến chất lượng, tính khả thi, hiệu quả của VBQPPL được ban hành. Việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật, không còn phù hợp của văn bản để kịp thời xử lý góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Do đó, một trong những công cụ hữu hiệu để nhận diện những quy định của điều ước quốc tế có phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo với pháp luật quốc gia hay không thì trước hết cần thực hiện việc rà soát kịp thời, hiệu quả, qua đó góp phần thanh lọc các văn bản khuyết điểm, chưa đảm bảo tính thống nhất với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, kinh phí cho công tác rà soát, lấy ý kiến chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến hoạt động này chưa được triệt để và đạt hiệu quả cao.


CHƯƠNG II: RÀ SOÁT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

I. Rà soát các cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên cần nội luật hóa

Các lĩnh vực được rà soát trong Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và UKVFTA bao gồm: 
- Hạn ngạch thuế quan xuất nhập khẩu 
Phân phối hàng hóa
Thương mại điện tử
Cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu theo cam kết tại Hiệp định CPTPP
- Phòng vệ thương mại
- Hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô
- Hàng tân trang 

II. Đánh giá kết quả hoạt động xây dựng văn bản pháp luật để nội luật hóa cam kết tại một số FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên trong một số lĩnh vực của Bộ Công Thương 

Hiệp định CPTPP

Căn cứ kết quả rà soát các cam kết trong Hiệp định CPTPP tại mục I nêu trên, có thể nhận thấy không phải lĩnh vực nào Việt Nam cũng cần ban văn bản pháp luật để nội luật hóa trong nước (ví dụ Cạnh tranh, thương mại điện tử). Do đó, tại mục này sẽ tập trung đánh giá kết quả hoạt động xây dựng văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực cần ban hành văn bản để nội luật hóa. 
1.1. Hạn ngạch thuế quan xuất khẩu, nhập khẩu
Theo nội dung cam kết trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với 2 mặt hàng thuốc lá nguyên liệu, ô tô đã qua sử dụng: Cả 2 mặt hàng này, Việt Nam đều phải ban hành văn bản trong nước để nội luật hóa. Tuy nhiên, các văn bản chưa đảm bảo thời gian theo đúng cam kết, cụ thể: 

  • Đối với mặt hàng thuốc lá nguyên liệu: 

Việt Nam cam kết số lượng thuốc lá nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng cụ thể từ năm thứ 1 (năm 2019) đến năm thứ 20 (từ năm thứ 21 và mỗi năm sau đó sẽ không giới hạn số lượng). 
Theo thẩm quyền được giao tại Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2020/TT-BCT ngày 22/01/2020 quy định việc nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo hạn ngạch thuế quan cam kết tại Hiệp định CPTPP, có hiệu lực từ ngày 29/02/2020. Số lượng công bố tại Phụ lục I Thông tư số 03/2020/TT-BCT từ năm 2020 đến năm 2038. Lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo Hiệp định CPTPP không tính vào lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO do Bộ Công Thương công bố hàng năm.
Thông tư số 03/2020/TT-BCT được xây dựng và ban hành theo đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ban hành, bao gồm: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định. Nội dung của Thông tư đảm bảo nội luật hóa các cam kết, đối tượng phân giao hạn ngạch thuế quan là các doanh nghiệp thương mại nhà nước thực hiện theo quy định tại Thông tư số 12/2018/TT-BCT.

  • Đối với mặt hàng ô tô đã qua sử dụng:

Việt Nam cam kết số lượng ô tô đã qua sử dụng (bao gồm xe có động cơ thấp hơn hoặc bằng 3.000 phân khối và xe có động cơ trên 3.000 phân khối) nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng cụ thể từ năm thứ 1 (năm 2019) đến năm thứ 16 (từ năm thứ 17 và mỗi năm sau đó sẽ duy trì số lượng là 75 xe).
 Theo thẩm quyền được giao tại Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 04/2020/TT-BCT ngày 22/01/2020 quy định về đấu giá hạn ngạch thuế quan nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng theo cam kết tại Hiệp định CPTPP. Số lượng xe ô tô được công bố từ năm 2020 đến năm 2034.
Thông tư số 04/2020/TT-BCT được xây dựng và ban hành theo đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ban hành, bao gồm: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
1.2. Phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI
Theo nội dung cam kết và Nghị quyết số 
72/2018/QH14, Việt Nam áp dụng trực tiếp các quy định của Hiệp định CPTPP tại Phụ lục 02 (bao gồm các phân ngành dịch vụ trong bảng NCM I, II và III của Hiệp định. Theo đó, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực (14/01/2019) không cần xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên cam kết, 5 năm sau khi Hiệp định TPP có hiệu lực, việc kiểm tra nhu cầu kinh tế sẽ bị bãi bỏ. Do đó, để thực hiện cam kết này, Việt Nam cần có văn bản thông báo/hướng dẫn để cơ quan cấp phép thực hiện đúng theo cam kết hoặc phải sửa đổi, bổ sung văn bản cụ thể Nghị định số 09/2018/NĐ-CP để loại trừ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế đối với các nước thành viên CPTPP.
Đối với các nội dung bảo lưu về dịch vụ phân phối tại Phụ lục I (các biện pháp không tương thích) đã liệt kê các biện pháp hiện hành và sẽ tiếp tục được áp dụng trong đó liệt kê Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 2 năm 2007 (nay là Nghị định số 09/2018/NĐ-CP).
Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình cấp phép lập cơ sở bán lẻ và lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất phải thực hiện kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT), trừ trường hợp cơ sở bán lẻ đó có diện tích dưới 500 m2, được lập trong trung tâm thương mại và không thuộc loại hình cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini. 
Việc kiểm tra ENT được thực hiện trên cơ sở thành lập Hội đồng ENT, đánh giá ENT theo các tiêu chí cụ thể quy định tại Nghị định.
Khoản 2 Điều 23 quy định tiêu chí kiểm tra nhu cầu kinh tế như sau:
 “a) Quy mô của khu vực thị trường địa lý chịu ảnh hưởng khi cơ sở bán lẻ hoạt động;
b) Số lượng các cơ sở bán lẻ đang hoạt động trong khu vực thị trường địa lý;
c) Tác động của cơ sở bán lẻ tới sự ổn định của thị trường và hoạt động kinh doanh của các cơ sở bán lẻ, chợ truyền thống trong khu vực thị trường địa lý;
d) Ảnh hưởng của cơ sở bán lẻ tới mật độ giao thông, vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy trong khu vực thị trường địa lý;
đ) Khả năng đóng góp của cơ sở bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực thị trường địa lý, cụ thể:
- Tạo việc làm cho lao động trong nước;
- Đóng góp cho sự phát triển và hiện đại hóa ngành bán lẻ trong khu vực thị trường địa lý;
- Cải thiện môi trường và điều kiện sống của dân cư trong khu vực thị trường địa lý;
- Khả năng và mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước.”
Điều 24 Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định cụ thể thành lập Hội đồng như sau: 
“1. Hội đồng ENT do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi lập cơ sở bán lẻ thành lập trên cơ sở đề xuất của Cơ quan cấp Giấy phép.
2. Hội đồng ENT gồm: Đại diện Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc đại diện cơ quan được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền làm Chủ tịch Hội đồng ENT; đại diện Sở Công Thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư và các sở, ban, ngành, tổ chức có liên quan làm thành viên hội đồng ENT. Trường hợp địa điểm lập cơ sở bán lẻ có vị trí tại khu vực địa lý cấp phường, xã, thị trấn tiếp giáp với tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương khác thì Hội đồng ENT phải có đại diện của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố tiếp giáp.

3. Hội đồng ENT trên cơ sở đánh giá tiêu chí ENT quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị định này phải làm rõ sự phù hợp hoặc không phù hợp của địa điểm lập cơ sở bán lẻ để Chủ tịch Hội đồng ENT có văn bản kết luận đề xuất cho phép hoặc không cho phép lập cơ sở bán lẻ tại địa điểm đó.
Về hàng hóa phân phối, Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng và duy trì bất kỳ biện pháp nào liên quan đến dịch vụ xuyên biên giới và đầu tư các sản phẩm thuốc lá và xì gà, ấn phẩm, kim loại quý và đá quý, thuốc và dược phẩm , thuốc nổ, dầu thô và dầu đã quá chế biến. 

Thông tư số 34/2013/TT-BCT công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tại phụ lục 3 đã quy định danh mục hàng hóa không được thực hiện quyền phân phối, trong đó bao gồm các mặt hàng như sau: Lúa gạo; Đường mía, đường củ cải; Thuốc lá và xì gà; Dầu thô và dầu đã qua chế biến; Thuốc nổ; Sách, báo và tạp chí; Kim loại quý và đá quý; Vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu. 
Nghị định số 09/2018/NĐ-CP, đã cho phép tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được phép thực hiện phân phối bán lẻ dầu, mỡ bôi trơn; gạo; đường; vật phẩm đã ghi hình; sách, báo và tạp chí. Cụ thể khoản 4 Điều 9 Nghị định này quy định như sau:
“4. Trường hợp hàng hóa kinh doanh chưa được cam kết mở cửa thị trường trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: Dầu, mỡ bôi trơn; gạo; đường; vật phẩm đã ghi hình; sách, báo và tạp chí
a) Điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Đối với hàng hóa là dầu, mỡ bôi trơn: Xem xét cấp phép thực hiện quyền nhập khẩu, quyền phân phối bán buôn cho tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có thực hiện một trong các hoạt động sau:
- Sản xuất dầu, mỡ bôi trơn tại Việt Nam;
- Sản xuất hoặc được phép phân phối tại Việt Nam máy móc, thiết bị, hàng hóa có sử dụng dầu, mỡ bôi trơn loại đặc thù.
c) Đối với hàng hóa là gạo; đường; vật phẩm đã ghi hình; sách, báo và tạp chí: Xem xét cấp phép thực hiện quyền phân phối bán lẻ cho tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có cơ sở bán lẻ dưới hình thức siêu thị, siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi để bán lẻ tại các cơ sở đó.”
Điều kiện tại điểm a khoản 4 Điều 9 nêu trên bao gồm:
- Có kế hoạch về tài chính để thực hiện hoạt động đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh;
- Không còn nợ thuế quá hạn trong trường hợp đã thành lập tại Việt Nam từ 01 năm trở lên.
- Phù hợp với quy định của pháp luật chuyên ngành;
- Phù hợp với mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trong cùng lĩnh vực hoạt động;
- Khả năng tạo việc làm cho lao động trong nước;
- Khả năng và mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Như vậy, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực, các văn bản trong nước đã đầy đủ các quy định, biện pháp để áp dụng, các quy định tương thích với cam kết tại Hiệp định; đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và đảm bảo tính khả thi để thực hiện. Tuy nhiên, liên quan đến cam kết bãi bỏ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế cần phải triển khai thực hiện kể từ ngày 14/01/2024. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có văn bản trong nước để thực hiện cam kết này.
Do đó, đề nghị cần sớm có văn bản thông báo/hướng dẫn để các cơ quan cấp phép thực hiện đúng theo cam kết hoặc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 09/2018/NĐ-CP về việc loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên CPTPP.
Ngoài ra, hiện nay trong lĩnh vực phân phối hàng hóa được quy định tại Nghị định số 09/2018/NĐ-CP sau gần 6 năm thực thi đã phát sinh một số nội dung, đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số nội dung để cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Cụ thể:
i) Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
- Nghiên cứu mở rộng phạm điều chỉnh, đối tượng áp dụng các hoạt động thương mại/dịch vụ trên cơ sở gắn với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam (Luật Đầu tư, khoản 2 Điều 1 Hiệp định GATS) sẽ phải tuân thủ các biện pháp/điều kiện cụ thể trong các lĩnh vực đó.
- Nghiên cứu, bổ sung làm rõ quan hệ với pháp luật chuyên ngành (thương mại điện tư, bán lẻ theo phương thức đa cấp, các mô hình kinh doanh mới… 
ii) Điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền quản lý
- Nghiên cứu quy định điều kiện tiếp cận thị trường, đầu tư kinh doanh cụ thể trong từng các hoạt động thương mại/dịch vụ 
- Đơn giản hóa quy trình, thủ tục cấp phép (bao gồm hồ sơ tài liệu, thời gian thực hiện…)
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trên cơ sở các văn bản, đạo của các cấp có thẩm quyền.
iii) Nội luật hóa các cam kết quốc tế: Nghiên cứu bãi bỏ kiểm tra ENT đối với các nhà đầu là thành viên Hiệp định CPTPP. Bên cạnh đó, cần rà soát việc công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động mua bán hàng hóa của doanh nghiệp FDI trên cơ sở các Hiệp định mới đã được ký kết trong thời gian qua.
iv) Các nội dung khác: Nghiên cứu bổ sung hoàn thiện một số hoạt động quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân phối để bao quát hết các hoạt động mới phát sinh trong thực tiễn thời gian qua; nghiên cứu bổ sung quy định ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu;…   
1.3. Chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Về cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa:
Để các cam kết về cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa được áp dụng tại Việt Nam, ngày 22 tháng 01 năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2019/TT-BCT quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định CPTPP, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 08/3/2019. Có thể thấy, ta đã rất nỗ lực cố gắng để xây dựng và ban hành Thông tư để nội luật hóa các cam kết quốc tế trong Hiệp định CPTPP.
Thông tư số 03/2019/TT-BCT được xây dựng đảm bảo tuân theo quy trình, thủ tục xây dựng theo quy định tại Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn bao gồm Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Thông tư số 19/2018/TT-BCT ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Công Thương (hiện nay đã được thay thế bởi Thông tư số 47/2023/TT-BCT).
Nội dung Thông tư số 03/2019/TT-BCT cũng đảm bảo nội luật hóa đầy đủ các nội dung theo cam kết, thống nhất với hệ thống pháp luật trong nước và đảm bảo minh bạch, khả thi trong quá trình thực hiện. Thông tư được xây dựng đảm bảo theo quy trình, thủ tục theo quy định: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
Tuy nhiên, thời gian ban hành Thông tư chưa đảm bảo có hiệu lực cùng thời điểm với ngày có hiệu lực của Hiệp định với Việt Nam (ngày 14/01/2019). Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 08/3/2019. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu trước ngày Thông tư này có hiệu lực để được hưởng ưu đãi thuế quan theo quy định của Hiệp định và theo quy định của Nước thành viên nhập khẩu, nội dung này đã được quy định tại Điều 32 Thông tư số 03/2019/TT-BCT.
Ngày 24/3/2020, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 06/2020/TT-BCT sửa đổi , bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2019/TT-BCT. Theo đó, bổ sung thêm khái niệm “xe toàn bộ” (wholly formed) để làm rõ hơn cách áp dụng trong thực tế. Đồng thời, bổ sung thêm nội dung: Các nội dung hướng dẫn, thống nhất cách hiểu liên quan đến Quy tắc xuất xứ hàng hóa được các Nước thành viên thống nhất luân phiên hoặc thống nhất tại báo cáo các phiên họp của Ủy ban về Quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận xuất xứ và Hội đồng CPTPP trong khuôn khổ thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương là căn cứ để các cơ quan, tổ chức cấp C/O và cơ quan hải quan thực hiện. Các nội dung này được thông báo đến các cơ quan, tổ chức cấp C/O và cơ quan hải quan thông qua cơ quan đầu mối quy định tại Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc Chỉ định các cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).”
- Về cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa: 
Hiệp định CPTPP cho phép các nước thành viên được lựa chọn áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa ngay khi Hiệp định có hiệu lực và cho các nước thành viên lựa chọn cơ chế này sau 1 thời gian chuyển tiếp như sau:
- Đối với tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nhà nhập khẩu: Hiện tại, ta vẫn chưa triển khai áp dụng do đang trong quá trình xây dựng văn bản để quy định về nội dung này trong Nghị định thay thế Nghị định số 31/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa.
- Đối với tự chứng nhận xuất xứ của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất: Các nước thành viên CPTPP được lựa chọn áp dụng sau 5 năm và gia hạn thêm 5 năm (tối đa 10 năm) kể từ khi Hiệp định có hiệu lực đối với nước thành viên đó.
Trong thời gian chuyển tiếp, các nước thành viên CPTPP được linh hoạt áp dụng song song hai cơ chế chứng nhận xuất xứ: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp C/O và Nhà xuất khẩu đủ điều kiện (approved exporter) được tự chứng nhận xuất xứ.
Kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 14/01/2019, Việt Nam đã thông báo với các nước CPTPP về việc áp dụng cơ chế cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp C/O trong thời gian tối đa 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực với Việt Nam (đến ngày 14/01/2024). Theo khoản 3 Phụ lục 3-A Hiệp định CPTPP thì nước thành viên Hiệp định có thể gia hạn áp dụng quy định tại khoản 2 thêm không quá 5 năm nếu nước thành viên đó thông báo tới các nước thành viên khác không muộn hơn 60 ngày trước khi hết thời hạn ban đầu.
Ngày 22 tháng 01 năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2019/TT-BCT quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định CPTPP, sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2020/TT-BCT ngày 24 tháng 3 năm 2020. Theo đó, Thông tư số 03/2019/TT-BCT không quy định nội dung về tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân theo Hiệp định CPTPP do Việt Nam chưa áp dụng quy định này.
Việt Nam đã đề xuất gia hạn tiếp tục thực hiện cơ chế cấp C/O cho hàng hóa theo Hiệp định CPTPP cho đến khi có đủ cở sở pháp lý triển khai cơ chế nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ. Vì theo khoản 2 Điều 34 Luật Quản lý ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương chấp thuận bằng văn bản cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhưng chưa có quy định trình tự thủ tục và chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa mà Việt Nam cam kết trong các FTA.
1.4. Hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô
Trên cơ sở cam kết tại Hiệp định và Thư song phương giữa Bộ trưởng Bộ Kinh tế Mê-hi-cô và Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam, Việt Nam cần thực hiện một số nội dung như sau:
- Phân giao hạn mức ưu đãi thuế quan theo từng năm đối với: sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô sử dụng nguyên liệu (sợi và vải acrylic) quy định trong Danh mục nguồn cung thiếu hụt và sản phẩm quần áo, tã lót trẻ em theo biểu thuế quan nếu đáp ứng quy tắc xuất xứ cắt may.  
- Xây dựng hệ thống đăng ký doanh nghiệp để doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô đăng ký nhằm thực hiện cơ chế giám sát hàng dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô trong Hiệp định CPTPP.
Tại Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Nghị định liên quan đến dệt may (giám sát về dệt may và hạn ngạch dệt may với Mê-hi-cô; tự vệ đặc biệt) thời hạn hoàn thành tháng 01 năm 2019.
Khoản 1 Điều 24 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư để quy định: “Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ”.
Khoản 2 Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan như sau: “Bộ Công Thương công bố việc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan và quyết định phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan.
Căn cứ quy định pháp luật nêu trên, để sớm hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quy định để hưởng lợi ích khi xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô nhằm triển khai Hiệp định CPTPP, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 07/2019/TT-BCT ngày 19/4/2019, của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo CPTPP và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 6 năm 2019.
Hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định, gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc. 
Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 72/2018/QH14 về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12/11/2018. Theo đó, Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019.
Theo đó, việc ban hành Thông tư này chậm hơn so với thời điểm hiệu lực của Hiệp định và phân công của Thủ tướng Chính phủ. Ngày hiệu lực thi hành của Thông tư (20/6/2019) chậm hơn gần 6 tháng so với thời điểm hiệu lực của Hiệp định.
Thông tư được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo Thông tư quy định hạn ngạch thuế quan hàng dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
Thông tư bao gồm 5 Chương và 12 Điều. Thông tư này Danh mục hàng dệt may áp dụng hạn ngạch thuế quan xuất khẩu sang Mê-hi-cô theo quy định của Mê-hi-cô và công bố lượng hạn ngạch thuế quan xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô năm 2019. Bộ Công Thương công bố lượng hạn ngạch thuế quan của các năm tiếp theo sau khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô.
Về cơ bản nội dung của Thông tư này tương thích cam kết;  đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đảm bảo tính khả thi để thực hiện. Quy trình, thủ tục cấp chứng thư xuất khẩu cụ thể, rõ ràng, minh bạch được thực hiện toàn trình trên hệ thống điện tử.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh hạn chế cụ thể:
Khoản 3 Điều 3 Thông tư quy định: “Bộ Công Thương công bố lượng hạn ngạch thuế quan của các năm tiếp theo sau khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô.”, tuy nhiên theo cam kết (thư song phương) không có cam kết việc thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô như quy định tại khoản này. Do đó, nội dung này cần được xem xét, sửa đổi để thực hiện theo đúng cam kết, không vướng mắc cho phía ta khi công bố lượng hạn ngạch hàng năm.
Điều 5 Thông tư, chưa hướng dẫn về việc thể hiện quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng trên C/O mẫu CPTPP. Do đó, cần nghiên cứu về việc thể hiện quy tắc cụ thể mặt hàng tại Điều 5.
Hiện nay, Bộ Công Thương đã và đang triển khai thực hiện xây dựng Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư này. Đề nghị Bộ Công Thương tiếp tục nghiên cứu và sớm ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế, vướng mắc nêu trên.
1.5. Hàng tân trang
Theo Hiệp định CPTPP: “Nếu một Bên áp dụng hoặc duy trì các biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu hàng hóa đã qua sử dụng thì các biện pháp này sẽ không được áp dụng với hàng hóa tân trang”.
Trên cơ sở cam kết tại Hiệp định nêu trên, Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và Quyết định 121/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Nghị định liên quan đến hàng tân trang với thời gian hoàn thành là tháng 01năm 2019.
Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện phát triển kinh tế -xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, tại phụ lục 4 ban hành kèm theo Nghị quyết này có giao cho Bộ Công Thương chủ trì xây dựng Nghị định của Chính phủ về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), thời gian trình Chính phủ trong Quý IV năm 2021.
Theo đó, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2023/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2023 của Chính phủ về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2024.
Trước khi xây dựng Nghị định, Bộ Công Thương đã tiến hành xây dựng đề án “nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang trong bối cảnh mới” nhằm nghiên cứu quy định của pháp luật về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang, các cam kết liên quan tại Hiệp định CPTPP và kinh nghiệm quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang của các nước.
Việc xây dựng Nghị định đã tuân thủ các quy trình, thủ tục, quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định quy định chi tiết luật này.
1. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo 
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương với sự tham gia của một số bộ, ngành.
2. Xây dựng dự thảo Nghị định
3. Tổ chức tọa đàm về kinh nghiệm quản lý hàng tân trang của các chuyên gia quốc tế
4. Lấy ý kiến các bộ, ngành có liên quan và đăng tải website lấy kiến rộng rãi tổ chức, cá nhân.
5. Bộ Tư pháp đã họp thẩm định đối với dự thảo Nghị định
Hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định, gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc. 

Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 72/2018/QH14 về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12/11/2018. Theo đó, Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/01/2019.
Theo đó, việc ban hành Nghị định 77/2023/NĐ-CP và thời điểm có hiệu lực của Nghị định này chậm hơn so với thời điểm có hiệu lực của Hiệp định là gần 2 năm, chưa đảm bảo lộ trình theo đúng cam kết.
Các nội dung nội luật hóa tại Nghị định đảm bảo tương thích với cam kết tại Hiệp định và các điều ước quốc tế có liên quan và thống nhất trong hệ thống pháp luật, các quy trình, thủ tục cấp phép mã số có sở tân trang, giấy phép nhập khẩu hàng tân trang rõ ràng, minh bạch và khả thi để thực hiện. Tại thời điểm rà soát chưa phát hiện các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đề xuất tiếp tục tăng cường phổ biến cho các thương nhân thuộc đối tượng áp dụng để thực hiện, đồng thời có kế hoạch triển khai công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
1.6. Phòng vệ thương mại
Trong lĩnh vực phòng vệ thương mại, Việt Nam cần ban hành Thông tư để nội luật hóa cam kết về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt. Theo đó, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 19/2019/TT-BCT quy định về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi CPTPP vào ngày 30/9/2019, có hiệu lực từ 14/11/2019. Thông tư này hướng dẫn về biện pháp phòng vệ thương mại trong Chương 6 về phòng vệ thương mại và biện pháp khẩn cấp trong Chương 4 về dệt may của CPTPP.
Thông tư gồm 13 Điều quy định về các nguyên tắc và yêu cầu riêng về quy trình điều tra và áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hàng dệt may (áp dụng riêng cho hàng dệt may nhập khẩu từ các nước CPTPP theo cam kết tại Chương 4 Dệt may CPTPP) và các biện pháp tự vệ chuyển tiếp đối với hàng hóa nhập khẩu từ một hoặc các nước CPTPP. Đối với các vấn đề về quy trình, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp mà cam kết CPTPP không đề cập (không có yêu cầu riêng), Thông tư dẫn chiếu tới các văn bản chung về điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ theo quy định của WTO.
Với Thông tư này, trong giai đoạn chuyển tiếp, nhà sản xuất nội địa Việt Nam nếu bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng từ việc gia tăng nhập khẩu ồ ạt hàng hóa từ một hoặc các nước CPTPP do Việt Nam cắt giảm thuế quan theo cam kết CPTPP, có thể yêu cầu Bộ Công Thương thực hiện điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của mình.
Thời gian ban hành của Thông tư chậm so với Kế hoạch Chính phủ, đúng tiến độ theo Kế hoạch của Bộ Công Thương và không vi phạm yêu cầu của CPTPP về thời điểm hiệu lực do việc thực hiện các biện pháp tự vệ đặc biệt đối với hàng hóa từ các đối tác CPTPP là quyền của Việt Nam, không phải nghĩa vụ. Tuy nhiên, nếu xét từ việc đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp có nhu cầu áp dụng biện pháp này trước ngày Thông tư có hiệu lực vì theo cam kết CPTPP thì các biện pháp tự vệ đặc biệt chỉ có thể được thực hiện sau khi Hiệp định có hiệu lực ít nhất 6 tháng, tức là phải từ 14/7/2019. 

2. Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA

Do các nội dung cam kết trong Hiệp định UKVFTA gần như kế thừa toàn bộ các nội dung cam kết trong Hiệp định EVFTA nên các nội dung đánh giá về một số lĩnh vực cụ thể sẽ được tổng hợp xen kẽ trong phần dưới đây:
2.1. Hàng tân trang
Bộ Công Thương đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA. Chính phủ đã thông qua lập đề nghị xây dựng Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland.
Thủ tướng Chính phủ đồng ý áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng. Đồng thời, giao Bộ Công Thương khẩn trương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Nghị định, trình Chính phủ trong Qúy III năm 2023, đảm bảo tiến độ, chất lượng, đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Với cơ sở pháp lý nêu trên, nhằm thiết lập cơ chế quản lý công khai, minh bạch, quản lý chặt chẽ hàng hóa tân trang nhập khẩu, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2024/NĐ-CP ngày 17 tháng 6 năm 2024 của Chính phủ Về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len. 
Nghị định được xây dựng theo đúng quy định, trình tự, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy định chi tiết Luật này.
Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2020. Theo đó, Việt Nam phải thực thi cam kết đối xử với hàng hóa tân trang giống như với hàng hóa mới tương tự từ ngày 01/8/2023 (không quá 3 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực), tuy nhiên Nghị định số 66/2024/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 17 tháng 6 năm 2024. Như vậy, việc thực thi trong nước chậm hơn gần 2 năm so với thời điểm có hiệu lực của Hiệp định.
Nội dung của Nghị định: Nghị định gồm 05 Chương, 23 Điều và 13 Phụ lục. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Nghị định: Nghị định này quy định việc quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len.
  Nghị định này áp dụng đối với doanh nghiệp tân trang, cơ sở tân trang, chủ sở hữu nhãn hiệu, thương nhân nhập khẩu hàng hóa tân trang và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA.
Nguyên tắc quản lý hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA: “Áp dụng quy định pháp luật về quản lý ngoại thương, thương mại, pháp luật chuyên ngành, pháp luật thuế, hải quan, pháp luật khác đối với hàng hóa tân trang đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 5 Nghị định này như áp dụng với hàng hóa mới cùng loại nhập khẩu vào Việt Nam.”
Doanh nghiệp tân trang hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu của hàng hóa ban đầu hoặc của hàng hóa mà hàng hóa tân trang được sử dụng làm chi tiết, linh kiện, phụ tùng thay thế chứng minh được năng lực tân trang, chế độ bảo hành, bảo dưỡng, xuất xứ của hàng hóa, quyền sử dụng nhãn hiệu theo quy định tại Nghị định được Bộ Công Thương xem xét cấp Mã số tân trang. Mã số tân trang có thời hạn hiệu lực là 5 năm kể từ ngày cấp. Theo đó, thương nhân Việt Nam chỉ được nhập khẩu hàng hóa tân trang của doanh nghiệp nước ngoài đã được Bộ Công Thương xác nhận đáp ứng các điều kiện theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA thông qua cơ chế cấp Mã số.
Về hồ sơ, trình tự thủ tục cấp phép: Nghị định quy định chi tiết, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, yêu cầu, trình tự cấp Mã số cơ sở tân trang, gia hạn hiệu lực Mã số tân trang, sửa đổi, bổ sung thông tin của tổ chức đã được cấp Mã số tân trang, đình chỉ, thu hồi Mã số tân trang;  Nghị định quy định chi tiết, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, trình tự cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện là hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA.
Nghị định giao các Bộ: Thông tin và Truyền thông, Y tế, Giao thông vận tải, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội và Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện là hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa tân trang.
Nội dung Nghị định đảm bảo tính thương thích đối với cam kết tại Hiệp định, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam; hồ sơ, quy trình, thủ tục cấp mã số tân trang và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện là hàng hóa tân trang được quy định rõ ràng, minh bạch đảm bảo tính khả thi thực hiện.Tại thời điểm rà soát chưa phát hiện các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đề xuất tiếp tục tăng cường phổ biến cho các thương nhân thuộc đối tượng áp dụng để thực hiện, đồng thời có kế hoạch triển khai công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
2.2. Phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI
Căn cứ cam kết của Hiệp định và Nghị quyết số 102/2020/QH14 của Quốc hội, Chương 8 về Tự do hóa đầu tư, thương mại dịch vụ và thương mại điện tử; và biểu cam kết cụ thể trong các Phụ lục của Chương 8 Hiệp định EVFTA được áp dụng trực tiếp kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với Hiệp định UKVFTA, theo Điều 2 Hiệp định, dịch vụ phân phối được kế thừa toàn bộ từ EVFTA, do đó, các nội dung cam kết trương tự như Hiệp định EVFTA.
Đối với các nội dung bảo lưu về dịch vụ phân phối đã liệt kê các biện pháp hiện hành và sẽ tiếp tục được áp dụng các biện pháp hiện hành, trong đó có việc thành lập cơ sở bán lẻ, hang hóa phân phối... các văn bản hiện nay là Nghị định số 09/2018/NĐ-CP; Thông tư số 34/2013/TT-BCT…
Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình cấp phép lập cơ sở bán lẻ và lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất phải thực hiện kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT), trừ trường hợp cơ sở bán lẻ đó có diện tích dưới 500 m2, được lập trong trung tâm thương mại và không thuộc loại hình cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini. 
Việc kiểm tra ENT được thực hiện trên cơ sở thành lập Hội đồng ENT, đánh giá ENT theo các tiêu chí cụ thể quy định tại Nghị định.
Như vậy, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực, các văn bản pháp luật trong nước đã đầy đủ các quy định, biện pháp để áp dụng, các quy định tương thích với cam kết tại Hiệp định; đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và đảm bảo tính khả thi để thực hiện.
Tuy nhiên, liên quan đến cam kết bãi bỏ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế cần phải triển khai thực hiện sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực:
(1) Đối với Hiệp định EVFTA: Kể từ ngày 01/8/2025, cần nghiên cứu có văn bản thông báo/hướng dẫn để các cơ quan cấp phép thực hiện đúng theo cam kết hoặc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 09/2018/NĐ-CP về việc loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên EVFTA.
(2) Đối với Hiệp định UKVFTA: Kể từ ngày 01/5/2026, Việt Nam sửa đổi, bổ sung Nghị định số 09/2018/NĐ-CP về việc loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên UKVFTA.
2.3. Chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Để thực hiện cam kết trong Hiệp định EVFTA, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 11/2020/TT-BCT ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu: 
Khoản 1 Điều 19, Điều 24 có quy định về những chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa từ Liên minh Châu Âu nhập khẩu về Việt Nam phải nộp để được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA (bao gồm chứng từ tự chứng nhận xuất xứ phát hành bởi nhà xuất khẩu đủ điều kiện theo quy định của Liên minh châu Âu phát hành đối với lô hàng có trị giá bất kỳ; hoặc nhà xuất khẩu bất kỳ phát hành đối với lô hàng không quá 6.000 EUR).
Thông tư số 11/2020/TT-BCT được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/8/2020, đảm bảo tuân theo đúng ngày có hiệu lực của Hiệp định. Thông tư được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tưThành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy địnhVụ Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm địnhLấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
  - Đối với Hiệp định UKVFTA, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 02/2021/TT-BCT ngày 11 tháng 6 năm 2021 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-le: Nội dung về chứng từ tự chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa từ Vương quốc Anh nhập khẩu vào Việt Nam được quy định tại khoản 1 Điều 19, Điều 24 Thông tư này (tương tự như EVFTA). 
Thông tư số 02/2021/TT-BCT được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định. Tuy nhiên, thời gian có hiệu lực của Thông tư chậm so với thời gian có hiệu lực của Hiệp định gần 6 tháng (Hiệp định có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, Thông tư có hiệu lực từ ngày 27/6/2021). 
Theo đó, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa được thực hiện bởi nhà xuất khẩu đủ điều kiện chưa được nội luật hóa do chưa có đủ cơ sở pháp lý về việc quy định thủ tục hành chính trong Thông tư theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3. Đánh giá chung về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA:

Qua phân tích, đánh giá về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương cho thấy như sau:
- Về chỉ đạo của cấp có thẩm quyền về việc xây dựng văn bản thực thi cam kết: 
Các cấp có thẩm quyền đặc biệt quan tâm, sát sao trong việc chỉ đạo xây dựng văn bản thực thi cam kết. Đối với từng FTA thế hệ mới, Quốc hội, Chính phủ đều ban hành Nghị quyết hoặc Quyết định của Thủ tướng để đưa ra kế hoạch thực thi Hiệp định, đồng thời, từng bộ ngành lại ban hành Kế hoạch riêng để thực thi cam kết, cụ thể:
+ Hiệp định CPTPP, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội về việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn kiện có liên quan. Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2019 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP.
+ Hiệp định EVFTA: Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 102/2020/QH14 phê chuẩn Hiệp định. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTG ngày 06/8/2020 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện EVFTA.
+ Hiệp định UKVFTA: Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 12/3/2021 phê duyệt Hiệp định UKVFTA. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 721/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2021 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện UKVFTA
- Về các lĩnh vực cần phải xây dựng văn bản nội luật hóa: 
Chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chứng nhận xuất xứ hàng hóa, quản lý hàng tân trang nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, phòng vệ thương mại, phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI, 
- Về hình thức văn bản thực thi cam kết: 
Do việc thực hiện cam kết còn phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục xây dựng theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL nên cần phải đảm bảo đúng thẩm quyền theo quy định. Về cơ bản, các hình thức để nội luật hóa cam kết trong các FTA thế hệ mới phù hợp với quy định pháp luật. 
Ví dụ: Đối với nội dung cam kết về hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Công Thương công bố việc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan và quyết định phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan nên Bộ Công Thương ban hành Thông tư để công bố hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng, thuốc lá nguyên liệu là phù hợp với quy định. 
Đối với việc quản lý hàng tân trang nhập khẩu do có quy định về điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính nên cần thiết phải ban hành ở cấp Nghị định để tuân thủ theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL và Luật Đầu tư (chỉ được quy định thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh từ cấp Nghị định trở lên).
- Về sự phù hợp với thời gian có hiệu lực của Hiệp định: 
Nhìn chung các cơ quan quản lý nhà nước đều nỗ lực, cố gắng để ban hành văn bản kịp thời nội luật hóa cam kết, để khi cam kết có hiệu lực thì được triển khai áp dụng luôn, tận dụng các ưu đãi trong các FTA. Tuy nhiên, do yếu tố khách quan, soạn thảo văn bản trong thời gian rất ngắn nhưng cũng phải tuân theo trình tự, thủ tục quy định nên một số lĩnh vực văn bản ban hành không kịp thời có hiệu lực với cam kết. 
- Về chất lượng của các văn bản thực thi cam kết: 
Về cơ bản, tất cả các văn bản thực thi cam kết đều bám sát theo đúng nội dung, tinh thần của cam kết. Trong quá trình xây dựng, các văn bản đều được lấy ý kiến của các cơ quan đơn vị tham gia đàm phán và cơ quan thực thi pháp luật (Bộ Tài chính – Tổng cục Hải quan) để khi văn bản được ban hành khả thi và được áp dụng luôn. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi một số từ ngữ nội luật hóa gây ra cách hiểu khác nhau nên gặp vướng mắc khi áp dụng.
- Về trình tự, thủ tục xây dụng các văn bản thực thi cam kết: 
Nhìn chung, các văn bản đều được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
Riêng đối với quy trình xây dựng Nghị định, văn bản cũng được gửi Bộ Tư pháp thẩm định theo các nội dung theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, cụ thể:
a) Sự cần thiết ban hành nghị định; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của nghị định;
b) Sự phù hợp của nội dung chính sách với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;
c) Tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của chính sách với hệ thống pháp luật, tính khả thi của nội dung chính sách và các giải pháp thực hiện chính sách dự kiến trong đề nghị xây dựng nghị định;
d) Tính tương thích của nội dung chính sách và các giải pháp thực hiện chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
đ) Sự cần thiết, tính hợp lý, chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định, nếu chính sách liên quan đến thủ tục hành chính; việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong đề nghị xây dựng nghị định, nếu chính sách liên quan đến vấn đề bình đẳng giới;
e) Việc tuân thủ trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng nghị định.


CHƯƠNG III – ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

I. Đề xuất chung

1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước là đầu mối đàm phán cam kết quốc tế

- Khi tham gia đàm phán các FTA trong thời gian tới, đề nghị các cơ quan, đơn vị đầu mối đàm phán cam kế quốc tế cần xem xét, cân nhắc thời gian cam kết có hiệu lực với phía ta để đảm bảo thời gian thực hiện quy trình, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản nội luật hóa theo đúng quy định. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với cơ quan thực thi cam kết để cơ quan chủ trì xây dựng văn bản có kế hoạch và lộ trình xây dựng văn bản.- 

2. Về phía các cơ quan, đơn vị xây dựng văn bản để thực hiện cam kết

- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiếp tục tích cực và sát sao trong việc chỉ đạo xây dựng các văn bản thực thi cam kết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tận dụng các ưu đãi theo đúng thời gian cam kết.
- Bám sát nội dung các cam kết để nội luật hóa phù hợp với ngôn ngữ trong nước để việc áp dụng được hiệu quả.

3. Về kinh phí xây dựng các văn bản thực thi cam kết

Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét tăng nguồn kinh phí hỗ trợ cho các cơ quan, đơn vị xây dựng các văn bản thực thi cam kết, bố trí kinh phí để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xây dựng VBQPPL, lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản.
4. Đề xuất các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục tăng cường phổ biến cho các thương nhân thuộc đối tượng áp dụng để thực hiện, đồng thời có kế hoạch triển khai công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
 

II. Các đề xuất cụ thể

Trên cơ sở các rà soát các nội dung cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên và đánh giá về những thuận lợi, khó khăn về trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Chương I; phân tích, đánh giá về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi các cam kết tại Chương II, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản sau:

1. Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản thực thi các cam kết quốc tế

Kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trường hợp xây dựng Thông tư để nội luật hóa các cam kết quốc tế được xây dựng, soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn để đảm bảo thời gian có hiệu lực theo cam kết.

2. Về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa

Kiến nghị khẩn trương nghiên cứu, xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 31/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa để:
- Cập nhật những nội dung mới, làm cơ sở triển khai cho giai đoạn các năm tới về tự chứng nhận xuất xứ, cấp C/O điện tử, ủy quyền cấp C/O.
Cập nhật cam kết quốc tế cũng như xu hướng chứng nhận xuất xứ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bổ sung các quy định áp dụng phổ biến trong FTA và các vấn đề pháp lý, tạo thuận lợi cho việc triển khai hướng dẫn các FTA mới sau này nhằm đảm bảo không có Thông tư nội luật hóa cam kết theo FTA trái với quy định của Nghị định;
Rà soát, loại bỏ, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và nâng cấp các thủ tục hành chính quy định trong các Thông tư và các văn bản hướng dẫn về cấp C/O lên Nghị định để tạo sự minh bạch, ổn định, phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3. Về phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định quy định chi tiết Luật thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên trong các FTA thế hệ mới để thực hiện cam kết bãi bỏ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế cần phải triển khai thực hiện sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.

4. Về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định CPTPP

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 3 Thông tư số 07/2019/TT-BCT ngày 19/4/2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo CPTPP để thực hiện theo đúng cam kết, không vướng mắc cho phía ta khi công bố lượng hạn ngạch hàng năm. Do theo cam kết (Thư song phương) không có cam kết việc thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô như quy định tại khoản này nhưng khoản 3 Điều 3 Thông tư số 07/2019/TT-BCT quy định việc này nên gây vướng mắc cho ta khi công bố lượng hạn ngạch thuế quan hàng năm.

5. Về hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng trong Hiệp định CPTPP

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư số 04/2020/TT-BCT ngày 22/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về đấu giá hạn ngạch thuế quan nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng theo Hiệp định CPTPP để đảm bảo vừa tuân thủ theo cam kết quốc tế, vừa phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước về đấu giá.

 

2. Nội dung cơ bản của FTA thế hệ mới 
3. Những điểm mới của FTA thế hệ mới so với các FTA truyền thống 
4. Tầm quan trọng của việc xây dựng văn bản pháp luật trong các FTA thế hệ mới 
5. Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
6. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
II. Khái quát chung về sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên 
1.  Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới của Bộ Công Thương
III. Thực tiễn xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
1. Những thuận lợi trong việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
2. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên
CHƯƠNG II: RÀ SOÁT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN 
I. Rà soát các cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên cần nội luật hóa 
II. Đánh giá kết quả hoạt động xây dựng văn bản pháp luật để nội luật hóa cam kết tại một số FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên trong một số lĩnh vực của Bộ Công Thương 
Hiệp định CPTPP 
2. Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA 
3. Đánh giá chung về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA: 
CHƯƠNG III – ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 
I. Đề xuất chung 
1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước 
2. Về phía các cơ quan, đơn vị xây dựng văn bản để thực hiện cam kết 
3. Về kinh phí xây dựng các văn bản thực thi cam kết 
II. Các đề xuất cụ thể 
1. Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản thực thi các cam kết quốc tế 
2. Về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa 
3. Về phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI 
4. Về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định CPTPP 
5. Về hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng trong Hiệp định CPTPP 
 


 

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CAM KẾT QUỐC TẾ TRONG CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

I. Khái quát chung về FTA thế hệ mới và sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1. Khái niệm FTA thế hệ mới

- Hiệp định thương mại tự do - Free Trade Agreement (viết tắt là FTA) là các hiệp định hợp tác kinh tế được ký giữa hai hay nhiều thành viên nhằm loại bỏ các rào cản với phần lớn hoạt động thương mại đồng thời thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên với nhau. Các rào cản thương mại có thể dưới dạng thuế quan, quota nhập khẩu, các hàng rào phi thuế quan khác như tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ, …
- Qua rà soát, nghiên cứu một số nguồn tài liệu cho thấy, thuật ngữ “thế hệ mới” được cho là sử dụng đầu tiên với các hiệp định thương mại tự do mà Liên minh châu Âu (EU) đàm phán với các đối tác thương mại của mình từ năm 2007. Nguyên nhân thúc đẩy EU thực thi chiến lược thương mại mới chính thức được công bố từ năm 2006 có thể xuất phát từ sự thiếu đồng thuận dẫn đến bế tắc trong các vòng đàm phán Doha từ năm 2001. Từ đó, EU cam kết phát triển và nâng cao quan hệ thương mại song phương với các đối tác nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thương mại của EU trên toàn cầu. Từ năm 2007, EU bắt đầu khởi động các vòng đàm phán các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” với các đối tác thương mại bao gồm Hàn Quốc, Ấn Độ và ASEAN với cách tiếp cận toàn diện, bao gồm nhiều nội dung đổi mới về đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, mua sắm chính phủ, hay phát triển bền vững.
Kể từ đó, thuật ngữ “thế hệ mới” được sử dụng một cách tương đối nhằm phân biệt các FTA được ký kết với phạm vi toàn diện hơn so với khuôn khổ tự do hoá thương mại được thiết lập trong các hiệp định WTO hay các hiệp định FTA truyền thống. Ngoài các hiệp định thương mại tự do của EU với các đối tác thương mại như FTA EU-Hàn Quốc, EU-Ấn Độ, EU-Nhật Bản, EU-ASEAN, … các hiệp định thương mại tự do được đàm phán sau giữa nhiều đối tác thương mại lớn như Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (T-TIP), … cũng áp dụng cách tiếp cận toàn diện này, và đều được coi là các hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới”.

2. Nội dung cơ bản của FTA thế hệ mới

Mặc dù không có quy định cụ thể về các nội dung cơ bản của FTA, nhưng qua rà soát nội dung trong các FTA thì có thể thấy 1 FTA (bao gồm FTA truyền thống và FTA thế hệ mới) thường bao gồm các nội dung chính sau đây:  
FTA thế hệ mới có nội dung tương tự như các FTA truyền thống nhưng có bổ sung thêm các nội dung khác biệt với FTA truyền thống. 
Thứ nhất là những quy định về việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Theo đó, mỗi quốc gia tham gia ký thỏa thuận FTA đều phải cam kết cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan. Đồng thời, cho phép các hàng hóa dịch vụ giữa các nước thành viên được xuất nhập khẩu.
Thứ hai là quy định danh mục những mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế quan. Loại hàng hóa dịch vụ được đưa vào ký kết sẽ phụ thuộc vào kết quả của hoạt động đàm phán. Có một số loại thuế nhạy cảm sẽ cắt giảm chậm hơn hoặc không được cắt giảm.
Thứ ba là quy định về thời gian cắt giảm thuế xuất nhập khẩu. Các Hiệp định thương mại tự do phải có phần mục nội dung quy định rõ ràng về khoảng thời gian hay lộ trình áp dụng cắt giảm thuế. FTA thường có thời gian kéo dài dưới 10 năm.
Thứ tư là quy định về quy tắc xuất xứ. Đây là quy định hết sức quan quan trọng và không thể thiếu trong FTA. Mỗi loại hàng hóa dịch vụ khác nhau sẽ có những quy định về việc mức cắt giảm thuế khác nhau. Những mặt hàng được sản xuất ở các nước tham gia vào thỏa thuận FTA sẽ được nhận ưu đãi lớn hơn những mặt hàng sản xuất ở các nước khác.
Ngoài các nội dung cơ bản trên, các FTA thế hệ mới còn bao gồm các nội dung sau:
- Nội dung “phi thương mại” như lao động, phát triển bền vững, môi trường, quản trị tốt…Trong bối cảnh mới hiện nay, các nội dung này được các quốc gia quan tâm vì có ảnh hưởng lớn đến vấn đề thương mại của các nước.
- Nội dung về mua sắm công, đầu tư, cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, thương mại điện tử.
- Nội dung về sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, thương mại hàng hóa, các quy tắc xuất xứ, …sẽ có mức độ cam kết sâu rộng hơn, có thể cam kết giảm thuế gần như về 0% đối với hầu hết các hàng hóa và dịch vụ mà không có loại trừ.

3. Những điểm mới của FTA thế hệ mới so với các FTA truyền thống

Để chỉ ra những điểm mới của các FTA thế hệ mới so với các FTA truyền thống, nội dung của các loại FTA sẽ được thể hiện trong bảng sau:
STT Tiêu chí so sánh FTA truyền thống FTA thế hệ mới
1 Thời gian xuất hiện Được đàm phán, ký kết trong giai đoạn đầu Được đàm phán, ký kết trong thời gian gần đây
2 Mức độ cam kết - thường có phạm vi hẹp, mức độ tự do hóa hạn chế
- Thường cam kết xóa bỏ thuế quan khoảng 70-80% dòng thuế
- có phạm vi rộng, mức độ tự do hóa mạnh, bao gồm cả nội dung “phi thương mại”
- thường là xóa bỏ thuế quan đối với khoảng 95-100% số dòng thuế, mở cửa mạnh nhiều lĩnh vực dịch vụ, mở cửa mua sắm công
3 Nội dung cam kết - Thường chỉ bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa
- Một số ít có cam kết về thương mại dịch vụ, các nguyên tắc chung về đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh…chung chung với mức ràng buộc ở mức độ thấp
 
- Bao gồm các cam kết tự do hóa thương mại trong nhiều lĩnh vực (hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường…), trong đó mức độ cam kết mở cửa mạnh.
- đặt ra nhiều tiêu chuẩn cao trong các vấn đề quy tắc
4 Số lượng Nhiều Ít (hiện nay mới có khoảng 3 FTA thế hệ mới CPTPP, EVFTA, UKVFTA)
 
Để hiểu rõ hơn về các cam kết trong các FTA thế hệ mới như nêu ở bảng so sánh trên, ta cùng tìm hiểu về cam kết trong một số Hiệp định: 
Thứ nhất, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP): 
Các cam kết về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan nhập khẩu trong CPTPP được chia làm ba nhóm chính:
(1) Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay: Thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ ngay khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
(2) Nhóm xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình: Thuế nhập khẩu sẽ được đưa về 0% sau một khoảng thời gian nhất định (lộ trình). Trong CPTPP, phần lớn là lộ trình 3-7 năm, tuy nhiên trong một số trường hợp, lộ trình có thể là trên 10 năm. Cá biệt, có một số rất ít dòng thuế có lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu trên 20 năm.
(3) Nhóm áp dụng hạn ngạch thuế quan (TRQ): Đối với nhóm hàng hóa này, thuế nhập khẩu chỉ xóa bỏ hoặc cắt giảm với một khối lượng hàng hóa nhất định (gọi là xóa bỏ/giảm thuế trong hạn ngạch). Với khối lượng nhập khẩu vượt quá lượng hạn ngạch trong biểu cam kết, mức thuế nhập khẩu áp dụng sẽ cao hơn, hoặc không được hưởng ưu đãi.
Còn cam kết về thuế nhập khẩu của các nước CPTPP đối với Việt Nam như sau: 
(1) Ca-na-đa cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu cho 95% số dòng thuế và 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Ca-na-đa ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Trong đó, 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản và 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
(2) Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với 86% số dòng thuế (tương đương 93.6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản), và gần 90% số dòng thuế sau 5 năm. Trong hiệp định CPTPP, Nhật Bản lần đầu tiên cam kết xoát bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu cho đại đa số nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ hai, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA):
- Về phía Việt Nam, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch xuất khẩu của EU ngay khi Hiệp định có hiệu lực. 
Tiếp đó, sau 7 năm, 91,8% số dòng thuế tương đương 97,1% kim ngạch xuất khẩu từ EU được Việt Nam xóa bỏ thuế nhập khẩu. Sau 10 năm, mức xóa bỏ này tương ứng là 98,3% số dòng thuế và 99,8% kim ngạch xuất khẩu của EU.
- Về phía EU, theo cam kết, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU.
Tiếp đó sau 07 năm, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Đối với 0,3% kim ngạch xuất khẩu còn lại của Việt Nam, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan (TRQ) với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%.
Như vậy, có thể nói 100% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu sau một lộ trình ngắn. Cho đến nay, đây là mức cam kết cao nhất mà một đối tác dành cho ta trong các hiệp định FTA đã được ký kết. 

4. Tầm quan trọng của việc xây dựng văn bản pháp luật trong các FTA thế hệ mới

4.1. Quy định pháp luật trong nước về việc thực hiện các FTA và việc nội luật hóa các cam kết
Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước như sau:
-  Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
- Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Trong các Tờ trình đề xuất ký điều ước quốc tế, cơ quan đề xuất ký điều ước quốc tế phải có nội dung đánh giá về việc áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế. 
Đồng thời, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đều quy định pháp luật trong nước phải phù hợp với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Điều đó được thể hiện ngay trong các điều quy định về việc xây dựng văn bản thực thi các điều ước quốc tế, cụ thể: 
Nguyên tắc chung trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Đồng thời, các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật xây dựng phải đảm bảo tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; Cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên cũng là 1 trong những căn cứ để xây dựng các văn bản. Ngoài ra, tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng là 1 nội dung thẩm định trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. 
Theo đó, tất cả các văn bản quy phạm pháp luật đều thống nhất quan điểm chung trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo tính tương thích với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý ngoại thương, Luật Quản lý ngoại thương đã đưa ra nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương như sau:
“1. Nhà nước quản lý ngoại thương theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Bảo đảm minh bạch, công khai, bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu, gắn với quản lý nhập khẩu.
3. Bảo đảm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Qua những phân tích nêu trên, cho thấy việc thực thi hay nội luật hóa các điều ước quốc tế là quan điểm chung, thống nhất, xuyên suốt từ Quốc hội, Chính phủ và các bộ ngành. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
4.2. Thực tiễn hoạt động nội luật hóa các cam kết trong các FTA thế hệ mới thời gian qua 
Xây dựng văn bản QPPL là hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo lập hệ thống quy tắc xử sự; duy trì và bảo đảm trật tự, kỉ cương của đời sống xã hội và quản lý của nhà nước. Pháp luật chỉ có thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong quản lý, duy trì trật tự và tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển khi có được một hệ thống pháp luật có chất lượng. Nếu chất lượng của pháp luật thấp, tính khả thi kém thì việc thực hiện sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí có những quy định pháp luật nhiều khi không thể thực hiện được trên thực tế. Nhận thức được ý nghĩa, vai trò quan trọng đó, công tác xây dựng văn bản pháp luật luôn được Quốc hội, Chính phủ và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là việc nội luật hóa các quy định trong các cam kết quốc tế, các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên như CPTPP, EVFTA, UKVFTA…
Trên cơ sở các quy định pháp luật trong nước về việc thực hiện các FTA và sự cần thiết của việc nội luật hóa các cam kết nêu ở trên, tương ứng với mỗi FTA thế hệ mới, Việt Nam đều ban hành Kế hoạch thực thi Hiệp định và đặc biệt chú trọng đối với công tác xây dựng pháp luật, thể chế để thực thi các cam kết trong từng Hiệp định. 
Để thực hiện nhiệm vụ được giao, kịp thời nội luật hóa các cam kết quốc tế, đảm bảo tính khả thi khi các cam kết có hiệu lực với Việt Nam, các Bộ ngành, trong đó có Bộ Công Thương đã khẩn trương xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và cam kết quốc tế. 
Từ cơ sở pháp lý và thực tiễn nêu trên cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng văn bản pháp luật trong các FTA thế hệ mới.  

5. Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

Với chủ trương đẩy mạnh mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam đã tham gia và ký kết gần 20 FTA với các nước. Điều đó đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, củng cố thị trường truyền thống, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia vào các thị trường tiềm năng trên thế giới, cũng như giúp cho người tiêu dùng Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn hàng phong phú, chất lượng với giá cả hợp lí…
Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới có tác động tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, được thể hiện qua các khía cạnh:
- Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu: Tự do hóa thương mại nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng có tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Những quy định trong các FTA này buộc nền kinh tế thành viên, trong đó có Việt Nam, phải tái cấu trúc, mở ra những thị trường mới và tạo sức hút về hàng hóa. Trong thời gian tới, khi việc thực hiện cắt giảm thuế quan theo các FTA bước vào giai đoạn cắt giảm sâu thì xuất khẩu của Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh do: (i) Sự nỗ lực của các bộ, ngành liên quan trong việc phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 7-8% mà Quốc hội đề ra; (ii) Khi thuế suất giảm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như: Nguyên phụ liệu dệt may, chất dẻo, ngô, cao su…; (iii) Hiệp định CPTPP và EVFTA đi vào thực thi sẽ là động lực cho xuất khẩu của Việt Nam.
- Tác động tích cực đến sản xuất trong nước, nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước có giá thấp hơn, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm. Từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất khẩu. 
- Môi trường kinh doanh minh bạch hơn, thuận lợi hơn và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Các FTA thế hệ mới sẽ giúp Việt Nam kiện toàn hơn bộ máy nhà nước, theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường trách nhiệm, kỷ cương kỷ luật của cán bộ, từ đó, hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của Việt Nam.
- Thu hút đầu tư nước ngoài: Trong các FTA thế hệ mới đều có các cam kết đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh hơn. 
Với những tác động tích cực nêu trên, để đảm bảo đáp ứng và phù hợp với cam kết, Việt Nam cần phải thay đổi, cải tiến các chính sách và pháp luật sao cho phù hợp với các thông lệ thương mại quốc tế. Việt Nam cần hoàn thiện thể chế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Quá trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đã có những tác động sâu rộng đến nền kinh tế Việt Nam. Công tác xây dựng thể chế, chính sách dần được hoàn thiện, giúp nền kinh tế Việt Nam có những chuyển biến rõ nét. Hội nhập quốc tế góp phần mở rộng thị trường, tăng lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nước trong khu vực; qua đó, cơ cấu hàng xuất khẩu đã có chuyển biến về chất. 
Để các tận dụng được hết các tác động tích cực của các FTA thế hệ mới đối với Việt Nam thì việc giúp doanh nghiệp hiểu, nắm rõ các cam kết là một hoạt động cực kỳ quan trọng, không thể thiếu của các cơ quan quản lý nhà nước. Đồng thời, nó cũng là công cụ giúp các cơ quan quản lý nhà nước quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh. Do đó, cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch nhằm thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập các FTA thế hệ mới. Tuy nhiên, việc cải cách các thể chế chính trị, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cần phải đảm bảo tính đồng bộ, không tạo ra các xung đột pháp lí và mâu thuẫn với chính sách, có hiệu quả và duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch, hạn chế ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt động, cũng như các nhà đầu tư mới trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, cũng phải tăng cường năng lực của các cơ quan quản lí nhà nước, các cơ quan thực thi, đặc biệt là hải quan và ngành tòa án là những người có năng lực chuyên môn cao và được trang bị những kĩ năng cần thiết về thông tin các quy định FTA thế hệ mới, các điều kiện, tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế… Có như vậy, mới có thể tận dụng được thời cơ của các FTA thế hệ mới, từ đó thúc đẩy và nâng tầm giá trị nền kinh tế Việt Nam trên thị trường quốc tế.

6. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

6.1. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP tại Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2019 nhằm phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức liên quan, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành và các biện pháp khác triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này.
- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện: Quyết định số 121/QĐ-TTg không giao cụ thể. 
6.2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi EVFTA theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTG ngày 06/8/2020 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện EVFTA nhằm phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức liên quan, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành và các biện pháp khác triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này.
- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện: Quyết định số 1201/QĐ-TTg không giao cụ thể. 
6.3. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi UKVFTA theo phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 721/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2021 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện UKVFTA nhằm phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cho các cơ quan, tổ chức liên quan, quyết định biện pháp chỉ đạo, điều hành và các biện pháp khác triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định này. 

- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện:
STT Nội dung công việc Cơ quan chủ trì Cơ quan phối hợp Sản phẩm Thời gian hoàn thành
1 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc chỉ định cơ quan đầu mối để thực thi UKVFTA cũng như các Chương của Hiệp định; cơ quan đầu mối tham gia Ủy ban thương mại, các Ủy ban chuyên ngành theo các chương; cơ quan đầu mối về thông tin liên lạc giữa Việt Nam và Vương quốc Anh về mọi vấn đề của Hiệp định; cơ quan điều phối việc xây dựng đề xuất và tiếp nhận các hỗ trợ kỹ thuật từ Vương quốc Anh trong quá trình thực thi Hiệp định. Bộ Công Thương Các bộ, ngành có liên quan Nghị định của Chính phủ/ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 2021
 

II. Khái quát chung về sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1.  Sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

Việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế (hay gọi nội luật hóa) có thể được hiểu chính là quá trình đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Theo đó, sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên tương tự như sự cần thiết của việc xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết quốc tế trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên đã nêu ở phần trên. Các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương là đa ngành và có ảnh hưởng trực tiếp đến các cam kết trong các FTA (như hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, quản lý nhập khẩu hàng tân trang, phòng vệ thương mại, chứng nhận xuất xứ hàng hóa…), ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp. Việc xây dựng văn bản nhanh sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được các ưu đãi trong từng FTA, từ đó giúp cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuận lợi hơn.

2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới của Bộ Công Thương

2.1. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP của Bộ Công Thương
- Mục tiêu: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 121/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Bộ Công thương với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP. Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 456/QĐ-BCT ngày 01 tháng 03 năm 2019 về Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) của Bộ Công Thương.
- Những nhiệm vụ chủ yếu: 
Quyết định số 456 đã nêu rõ Kế hoạch thực CPTPP của Bộ Công thương nhiều nội nội dung, trong đó, nhiệm vụ hoàn thiện kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP của Bộ Công thương là vấn đề tiên quyết, đặt cơ sở và nền móng cho các hoạt động đáp ứng theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP. Theo đó, lộ trình thực hiện kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi CPTPP được chia làm hai giai đoạn: 
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ năm 2019 với nhiệm vụ tập trung hoàn tất các công việc liên quan đến ban hành các văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện Hiệp định CPTPP; 
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 2020 đến 2025, tầm nhìn đến năm 2035 với nhiệm vụ tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến việc sửa đổi và ban hành văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện Hiệp định CPTPP. 
Bộ Công thương đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc thực hiện kế hoạch xây dựng VBPL thực thi CPTPP theo các mốc thời gian cụ thể:
- Các văn bản thuộc lĩnh vực công thương cần nội luật hóa, thời gian thực hiện:
SỐ TT NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỜI GIAN THỰC HIỆN NGUỒN KINH PHÍ
1 Xây dựng Luật sửa đổi một số Luật để thực thi Hiệp định CPTPP. Các Luật được sửa đổi gồm có: Luật An toàn thực phẩm 2010; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010; và Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (đối với những cam kết phải thực hiện ngay khi Hiệp định có hiệu lực) Vụ Pháp chế Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý I-II/2019 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
2 Thông tư hướng dẫn nội dung các biện pháp phòng vệ thương mại trong Hiệp định CPTPP Cục Phòng vệ thương mại Vụ Pháp chế, Cục XNK và các đơn vị liên quan Quý III/2019 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
3 Thông tư quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định CPTPP Cục XNK Vụ Pháp chế, Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý I/2019 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương

 

 
2.2. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi EVFTA của Bộ Công Thương
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 1201/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Minh châu Âu (EVFTA), Bộ Công thương với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Kế hoạch thực hiện Hiệp định EVFTA. Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 2091/QĐ-BCT ngày 06 tháng 8 năm 2020 về Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Minh châu Âu (EVFTA) của Bộ Công Thương.
SỐ TT NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỜI GIAN THỰC HIỆN NGUỒN KINH PHÍ
1 Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Hiệp định EVFTA về phòng vệ thương mại Cục Phòng vệ thương mại Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý III-IV/2020 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
- Các văn bản cần nội luật hóa theo Kế hoạch, thời gian thực hiện: 

 

 

 

 
2.3. Kế hoạch xây dựng văn bản pháp luật thực thi UKVFTA của Bộ Công Thương
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định số 721/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA), Bộ Công thương với vai trò là cơ quan chủ trì việc thực hiện Kế hoạch thực hiện Hiệp định UKVFTA. Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 1449/QĐ-BCT ngày 24 tháng 5 năm 2021 về Kế hoạch thực hiện Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA) của Bộ Công Thương.
- Các văn bản cần nội luật hóa theo Kế hoạch, thời gian thực hiện: 

 

SỐ TT NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ ĐƠN VỊ PHỐI HỢP THỜI GIAN THỰC HIỆN NGUỒN KINH PHÍ
1 Xây dựng Thông tư về quy tắc xuất xứ thực thi UKVFTA Cục Xuất nhập khẩu Các đơn vị liên quan Quý II - III/2021 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
2 Xây dựng Thông tư hướng dẫn thực hiện Hiệp định UKVFTA về phòng vệ thương mại Cục Phòng vệ thương mại Vụ Đa biên và các đơn vị liên quan Quý II - IV/2021 Ngân sách Nhà nước cấp cho Bộ Công Thương
 

 

III. Thực tiễn xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1. Những thuận lợi trong việc xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

1.1. Chỉ đạo kịp thời của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc nội luật hóa các cam kết quốc tế
Để nội luật hóa các cam kết trong CPTPP, EVFTA, UKVFTA, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 phê chuẩn CPTPP. Để thực hiện các biện pháp chỉ đạo, điều hành nhằm triển khai thực hiện đầy đủ và có hiệu quả Hiệp định CPTPP, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP và Quyết định số 734/QĐ-TTg chỉ định các  các cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định CPTPP. Việc chỉ đạo kịp thời trong việc sửa đổi các văn bản này đã giúp hệ thống văn bản pháp luật trong nước tương thích với các quy định, cam kết trong thực thi CPTPP, đồng thời, việc lựa chọn định hướng chính sách, cũng như công tác tổng hợp, thu thập đầy đủ các thông tin nhiều chiều về tất cả các khía cạnh liên quan tới quy định (cả về pháp lý và thực tiễn, cả tổng kết thực tiễn trong nước và các xu hướng thế giới)… đã được xử lý một cách nghiêm túc, cẩn trọng.
1.2. Nguồn lực thực hiện việc nội luật hóa
Để thực hiện việc rà soát, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhằm thực thi cam kết quốc tế, các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ Việt Nam đã quy định và phân công cụ thể đối với từng cơ quan có liên quan phụ trách việc nội luật hoá các cam kết tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tại văn bản phê chuẩn Hiệp định CPTPP và EVFTA, Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan theo thẩm quyền tiến hành rà soát các dự án luật và các văn bản pháp luật khác để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới kịp thời, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và đúng lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định. Đồng thời, Quốc hội cũng giao Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Hiệp định; phê duyệt, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên quan ở trung ương và địa phương triển khai kế hoạch thực hiện Hiệp định; chuẩn bị nguồn lực để bảo đảm tận dụng và phát huy các cơ hội, lợi thế mà Hiệp định đem lại; xây dựng, triển khai hiệu quả các biện pháp phòng ngừa và xử lý những tác động bất lợi có thể phát sinh trong quá trình thực hiện Hiệp định.
Đối với Hiệp định UKVFTA, Thủ tướng Chính phủ cũng giao các Bộ, ngành liên quan tiếp tục thực hiện rà soát pháp luật trong quá trình thực thi Hiệp định và báo cáo Chính phủ nếu có đề xuất sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật khác để phù hợp với yêu cầu của Hiệp định; Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật và trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt ban hành theo đúng với lộ trình đã quy định của UKVFTA. Đối với các văn bản cần được ban hành và có hiệu lực ngay khi Hiệp định có hiệu lực chính thức, áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Luật số 80/2015/QH13) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 63/2020/QH14), đồng thời có hướng dẫn kịp thời về việc thực thi Hiệp định cho các đối tượng có liên quan.
Như vậy, tại các văn bản chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền của Việt Nam, việc thực thi các cam kết tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã được bố trí, phân bổ nguồn lực hợp lý theo ngành, lĩnh vực, thẩm quyền của các cơ quan có liên quan, từ trung ương đến địa phương, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả và toàn diện việc nội luật hoá các cam kết tại các Hiệp định.
1.3. Quy trình, thủ tục xây dựng văn bản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại khoản 5 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật là “không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.
Việc xây dựng và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật thường được xem xét trên cơ sở bảo đảm tính tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Việt Nam có thể tham gia. Điều này được thấy qua nội dung của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Điều ước quốc tế quy định về thẩm định các văn bản liên quan. Theo đó, ngay từ khâu đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định cũng quy định căn cứ đề nghị xây dựng phải dựa trên cam kết quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đối với quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo có nhiệm vụ nghiên cứu điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Đồng thời, trong quá trình thẩm định đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, một trong các nội dung mà cơ quan chủ trì thẩm định phải tập trung thẩm định là tính tương thích với điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Bên cạnh đó, quy trình, thủ tục xây dựng văn bản nội luật hoá còn có những thuận lợi sau:
Thứ nhất, quy trình xây dựng VBQPPL bị ràng buộc bởi nhiều quy định khác nhau và trong nhiều trường hợp không thể thực hiện sớm như mong muốn. Trong khi đó, thời hạn để các cam kết FTA có hiệu lực lại được xác định cố định, không thể điều chỉnh tùy nghi như các chương trình xây dựng pháp luật nội địa thông thường. Mặc dù vậy, công tác chuẩn bị về mặt nội dung lại có thể được thực hiện rất sớm. Cụ thể, nội dung các cam kết phải thực thi đều đã xác định ngay khi công bố văn kiện chính thức. Cũng như vậy, các khía cạnh không tương thích của các quy định nội địa cũng đã được nhận diện (ít nhất là sau khi rà soát pháp luật phục vụ cho việc phê chuẩn, thậm chí đa phần có thể đã được xác định ngay sau khi việc đàm phán cam kết đó hoàn tất). Do đó, cơ quan soạn thảo có đủ điều kiện để chuẩn bị trước về nội dung dự kiến của quy định “nội luật hóa”, qua đó rút ngắn tối đa thời gian dành cho việc soạn thảo chính thức. Sau khi có quyết định chính thức về việc bắt đầu quy trình soạn thảo quy định liên quan, cơ quan soạn thảo có thể đã có ngay dự thảo ban đầu, từ đó có thể triển khai ngay các công việc tiếp theo như tham vấn ý kiến, tiếp thu, thẩm định….
Thứ hai, minh bạch là nguyên tắc quan trọng được nhấn mạnh trong hoạt động xây dựng VBQPPL của Việt Nam (Điều 5.3 Luật Ban hành VBQPPL) cũng như trong CPTPP (Mục B Chương 26 CPTPP). Từ góc độ nội dung, yêu cầu minh bạch đòi hỏi các quy định phải được trình bày một cách rõ ràng, cụ thể, chặt chẽ, cho phép hiểu đúng và chỉ theo một nghĩa thống nhất và duy nhất. Từ góc độ quy trình, thủ tục, yêu cầu minh bạch còn thể hiện ở việc các bước trong thủ tục phải được thiết kế chặt chẽ, có thời hạn chính xác, với các điều kiện/tiêu chí rõ ràng, cụ thể, hạn chế tối đa không gian quyết định có tính định tính của cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm sự tuần tự, thống nhất giữa các bước với nhau.
Thứ ba, thực hiện tham vấn doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động XDPLVề mặt pháp lý, theo quy định tại Luật Ban hành VBQPPL, việc tham vấn, lấy ý kiến đối tượng chịu tác động là yêu cầu bắt buộc trong quy trình soạn thảo các VBQPPL. Ngoài ra, cũng theo quy định của pháp luật về ban hành VBQPPL, các dự thảo VBQPPL có liên quan tới doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh cần được gửi lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp thông qua đầu mối là VCCI. Đây được xem là quy định bổ sung nhằm bảo đảm rằng việc tham vấn doanh nghiệp của cơ quan soạn thảo được cộng đồng doanh nghiệp biết đến một cách rộng rãi và được triển khai qua hành động chủ động thông qua các kênh/mạng lưới của VCCI - tổ chức quốc gia đại diện cộng đồng doanh nghiệp. Do đó, việc tham vấn VCCI cũng được xem là một tiêu chí bổ sung để đánh giá hiệu quả thực chất của hoạt động tham vấn trong soạn thảo các VBQPPL thực thi các Hiệp định.

2. Khó khăn, vướng mắc trong hoạt động xây dựng và ban hành văn bản pháp luật thực thi các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên

2.1. Khó khăn, vướng mắc về quy trình, thủ tục xây dựng văn bản thực thi FTA
Thực tiễn ban hành các VBQPPL thực thi các cam kết tại điều ước quốc tế cho thấy hoạt động nội luật hóa vẫn còn bị chậm so với thời hạn cam kết. Đây là các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng, yêu cầu cao nên khối lượng công việc nội luật hóa cũng đặt ra nhiều thách thức. Bên cạnh đó, đối với các văn bản thực thi các Hiệp định, thời điểm có hiệu lực của văn bản bị ràng buộc bởi cam kết tại Hiệp định đó, cụ thể như sau: 
• Về nguyên tắc, do các cam kết liên quan đều có hiệu lực ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các quy định “nội luật hóa” trong các văn bản này đều phải được ban hành để có hiệu lực từ ngày này; 
• Trên thực tế, do tất cả các văn bản này đều được soạn thảo, ban hành và/hoặc có hiệu lực sau ngày Hiệp định có hiệu lực. Yêu cầu của Hiệp định về thời hạn đòi hỏi các quy định “nội luật hóa” cam kết trong trường hợp này có thể coi là được tuân thủ nếu văn bản cho phép áp dụng hồi tố trở về trước.
Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL), việc soạn thảo và ban hành các VBQPPL đòi hỏi phải trải qua các trình tự, thủ tục từ lập đề nghị, soạn thảo, lấy ý kiến các đối tượng chịu tác động của VBQPPL, thẩm định, trình ký ban hành… Trong đó, đối với một số quy trình như lấy ý kiến đối tượng chiụ tác động của VBQPPL thì Luật Ban hành VBQPPL quy định thời hạn lấy ý kiến là 60 ngày (trừ trường hợp thực hiện thủ tục rút gon); hay thời hạn thẩm định của Bộ Tư pháp là 15 ngày đối với Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 ngày đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình. Điều này dẫn đến độ trễ nhất định trong soạn thảo và ban hành các văn bản thực thi cam kết. Xét từ góc độ lợi ích thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam, việc chậm ban hành các văn bản này vẫn gây ra những ảnh hưởng nhất định tới các doanh nghiệp, làm hạn chế khả năng tận dụng các lợi ích mà các Hiệp định lẽ ra có thể mang lại cho họ trong giai đoạn đầu thực thi Hiệp định.
Ngoài ra, Điều 152 Luật Ban hành QVBPPL quy định về các trường hợp áp dụng hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
1. Chỉ trong trường hợp thật cần thiết để bảo đảm lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương mới được quy định hiệu lực trở về trước.
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây:
a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”.
Như vậy, để áp dụng hiệu lực trở về trước, các cơ quan chủ trì soạn thảo cần đánh giá nội dung đó trên cơ sở: Phải đảm bảo lợi ích chung của xã hội, thực hiện các quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, đánh giá tác động của việc quy định hiệu lực trở về trước đó với ngân sách nhà nước, với doanh nghiệp.  
2.2. Khó khăn, vướng mắc về nội dung của văn bản nội luật hóa
a) Về căn cứ pháp lý ban hành VBQPPL
Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Ban hành VBQPPL “Căn cứ ban hành văn bản là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực hoặc đã được công bố hoặc ký ban hành chưa có hiệu lực nhưng phải có hiệu lực trước hoặc cùng thời điểm với văn bản được ban hành. Căn cứ ban hành văn bản bao gồm văn bản quy phạm pháp luật quy định thẩm quyền, chức năng của cơ quan ban hành văn bản đó và văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn quy định nội dung, cơ sở để ban hành văn bản”, theo đó, điều ước quốc tế không được coi là văn bản quy phạm pháp luật nên không thể là căn cứ để ban hành văn bản QPPL. Tuy nhiên trên thực tế, việc đưa các cam kết quốc tế vào căn cứ ban hành là cần thiết để tạo thuận lợi cho việc làm rõ mục đích, cơ sở và sự cần thiết của việc ban hành văn bản.
b) Về thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn đối với việc xây dựng và ban hành VBQPPL để thực thi cam kết
Về nguyên tắc, do các cam kết liên quan đều có hiệu lực ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các quy định “nội luật hóa” trong các văn bản này đều phải được ban hành để có hiệu lực từ ngày này. Theo quy định tại khoản 3 Điều 146 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015, sửa đổi năm 2020 quy định một trong trường hợp xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn: “Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; trường hợp cần ban hành ngay văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Tuy nhiên, Điều 147 và 148 Luật Ban hành VBQPPL không quy định thẩm quyền quyết định trình tự, thủ tục xây dựng đối với trường hợp tại khoản 3 Điều 146 nêu trên. Đồng thời, Nghị định 59/2024/NĐ-CP, Nghị định 154/2020/NĐ-CP và Nghị định 34/2016/NĐ-CP không hướng dẫn nội dung này. 
Điều này dẫn đến khó khăn trong việc phải kịp thời ban hành Thông tư có hiệu lực cùng thời điểm với cam kết trong các FTA do từ khi hoàn thành các thủ tục phê duyệt trong nước, mới có cơ sở để đề xuất xây dựng các văn bản nội luật hóa. Việc xây dựng vẫn cần phải tuân thủ đầy đủ quy trình, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nên thời gian có hiệu lực không đảm bảo theo cam kết. 
c) Về quy định thủ tục hành chính trong các VQBPPL thực thi cam kết
Theo khoản 4 Điều 14 Luật Ban hành VBQPPL, một trong các hành vi bị nghiêm cấm là quy định thủ tục hành chính trong thông tư, thông tư liên tịch, quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định của Ủy ban nhân dân, văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, trừ trường hợp được luật, nghị quyết của Quốc hội giao hoặc trường hợp cần thiết phải quy định thủ tục hành chính trong nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật này. Tuy nhiên, việc cấm thủ tục hành chính tại các văn bản QPPL do các Bộ, ngành, địa phương ban hành có thể làm chậm, ảnh hưởng đến quá trình sửa đổi thủ tục hành chính để thực hiện các điều ước quốc tế và các phát sinh trong việc thực thi các Hiệp định thương mại tự do FTA.
d) Về ngôn ngữ trong VBQPPL thực thi cam kết
Thực tế cho thấy việc soạn thảo các VBQPPL thực thi cam kết hướng tới các quy định bám sát ngôn ngữ đàm phán, điều này gây khó khăn của doanh nghiệp trong việc hiểu và áp dụng các quy định tại các VBQPPL nêu trên. Ví dụ như việc hiểu quy tắc xuất xứ CPTPP trong Thông tư 03/2019/TT-BCT ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương có nhiều điểm mới so với quy tắc xuất xứ trong các FTA trước đây mà doanh nghiệp đã quen thuộc dẫn đến có không ít doanh nghiệp mặc dù đã được đọc, nghiên cứu quy tắc xuất xứ trong Thông tư 03/2019/TT-BCT nhưng chưa hiểu được nội dung hay cách thức áp dụng các quy định này. 
đ) Về phạm vi điều chỉnh của các VBQPPL thực thi cam kết
Về cơ bản, các quy định của FTA có phạm vi áp dụng giới hạn cho các giao dịch thương mại giữa Việt Nam với các đối tác mà Việt Nam đã ký kết FTA. Do đó, trong quá trình nội luật hóa, nếu nhà làm luật không xác định rõ phạm vi áp dụng của văn bản nội luật hóa thì có thể dẫn đến nguy cơ mở rộng phạm vi áp dụng của các quy định trong FTA cho cả những giao dịch thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia không phải là thành viên của FTA đó.
2.3. Khó khăn, vướng mắc về nguồn lực thực hiện việc xây dựng văn bản 
- Về nguồn lực:
Bộ Công Thương không có cán bộ chuyên trách về công tác xây dựng VBQPPL, công tác kiểm tra VBQPPL và công tác rà soát, hệ thống hoá VBQPPL. Cán bộ thực hiện các công tác này đều kiêm nhiệm. Trong khi đó, các FTA thế hệ mới có phạm vi rộng, yêu cầu cao, nhiều nội dung mang tính kỹ thuật nên khối lượng công việc nội luật hóa cũng đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi nguồn nhân lực có sự am hiểu, kinh nghiệm, đã trải qua quá trình đàm phán đồng thời nắm rõ các quy định pháp luật có liên quan nhằm thực thi cam kết.
Ngoài ra, quá trình nội luật hoá đòi hỏi sự tham gia và đồng hành của nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự phối hợp của các cơ quan có liên quan còn chưa chặt chẽ, việc tham gia góp ý vào dự thảo VBQPPL còn chưa mang tính chuyên sâu, phần lớn chưa đảm bảo thời gian lấy ý kiến ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng VBQPL thực thi cam kết. Việc lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp nhiều khi chưa toàn diện, nhiều doanh nghiệp là đối tượng hưởng lợi chưa được tiếp cận đến dự thảo VBQPPL. Kể cả đối với quy trình thẩm định VBQPPL cũng chưa đảm bảo thời hạn hoàn thành, chưa đáp ứng tiến độ xây dựng và ban hành văn bản.
Có thể thấy rằng sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao cũng như các Bộ chuyên ngành để đảm bảo quá trình chuyển hóa FTA không gây ra khó khăn, cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp, nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như xem xét chuyển hóa FTA theo hướng cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh của Việt Nam không phải là một công việc đơn giản.
- Về kinh phí: 
Kinh phí hỗ trợ công tác xây dựng VBQPPL còn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đặc biệt trong việc bố trí kinh phí để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xây dựng VBQPPL, lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản.
Trong quá trình xây dựng VBQPPL, hoạt động rà soát, lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân là đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của VBQPPL là rất cần thiết và quan trọng, có vai trò quyết định đến chất lượng, tính khả thi, hiệu quả của VBQPPL được ban hành. Việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, trái pháp luật, không còn phù hợp của văn bản để kịp thời xử lý góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Do đó, một trong những công cụ hữu hiệu để nhận diện những quy định của điều ước quốc tế có phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo với pháp luật quốc gia hay không thì trước hết cần thực hiện việc rà soát kịp thời, hiệu quả, qua đó góp phần thanh lọc các văn bản khuyết điểm, chưa đảm bảo tính thống nhất với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, kinh phí cho công tác rà soát, lấy ý kiến chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến hoạt động này chưa được triệt để và đạt hiệu quả cao.


 

CHƯƠNG II: RÀ SOÁT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT THỰC THI CÁC FTA THẾ HỆ MỚI MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN

I. Rà soát các cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên cần nội luật hóa

Các lĩnh vực được rà soát trong Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và UKVFTA bao gồm: 
- Hạn ngạch thuế quan xuất nhập khẩu 
Phân phối hàng hóa
Thương mại điện tử
Cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu theo cam kết tại Hiệp định CPTPP
- Phòng vệ thương mại
- Hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô
- Hàng tân trang 

II. Đánh giá kết quả hoạt động xây dựng văn bản pháp luật để nội luật hóa cam kết tại một số FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên trong một số lĩnh vực của Bộ Công Thương 

Hiệp định CPTPP

Căn cứ kết quả rà soát các cam kết trong Hiệp định CPTPP tại mục I nêu trên, có thể nhận thấy không phải lĩnh vực nào Việt Nam cũng cần ban văn bản pháp luật để nội luật hóa trong nước (ví dụ Cạnh tranh, thương mại điện tử). Do đó, tại mục này sẽ tập trung đánh giá kết quả hoạt động xây dựng văn bản pháp luật trong một số lĩnh vực cần ban hành văn bản để nội luật hóa. 
1.1. Hạn ngạch thuế quan xuất khẩu, nhập khẩu
Theo nội dung cam kết trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với 2 mặt hàng thuốc lá nguyên liệu, ô tô đã qua sử dụng: Cả 2 mặt hàng này, Việt Nam đều phải ban hành văn bản trong nước để nội luật hóa. Tuy nhiên, các văn bản chưa đảm bảo thời gian theo đúng cam kết, cụ thể: 

  • Đối với mặt hàng thuốc lá nguyên liệu: 

Việt Nam cam kết số lượng thuốc lá nguyên liệu nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng cụ thể từ năm thứ 1 (năm 2019) đến năm thứ 20 (từ năm thứ 21 và mỗi năm sau đó sẽ không giới hạn số lượng). 
Theo thẩm quyền được giao tại Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2020/TT-BCT ngày 22/01/2020 quy định việc nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo hạn ngạch thuế quan cam kết tại Hiệp định CPTPP, có hiệu lực từ ngày 29/02/2020. Số lượng công bố tại Phụ lục I Thông tư số 03/2020/TT-BCT từ năm 2020 đến năm 2038. Lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo Hiệp định CPTPP không tính vào lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu thuốc lá nguyên liệu theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO do Bộ Công Thương công bố hàng năm.
Thông tư số 03/2020/TT-BCT được xây dựng và ban hành theo đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ban hành, bao gồm: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định. Nội dung của Thông tư đảm bảo nội luật hóa các cam kết, đối tượng phân giao hạn ngạch thuế quan là các doanh nghiệp thương mại nhà nước thực hiện theo quy định tại Thông tư số 12/2018/TT-BCT.

  • Đối với mặt hàng ô tô đã qua sử dụng:

Việt Nam cam kết số lượng ô tô đã qua sử dụng (bao gồm xe có động cơ thấp hơn hoặc bằng 3.000 phân khối và xe có động cơ trên 3.000 phân khối) nhập khẩu vào Việt Nam với số lượng cụ thể từ năm thứ 1 (năm 2019) đến năm thứ 16 (từ năm thứ 17 và mỗi năm sau đó sẽ duy trì số lượng là 75 xe).
 Theo thẩm quyền được giao tại Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 04/2020/TT-BCT ngày 22/01/2020 quy định về đấu giá hạn ngạch thuế quan nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng theo cam kết tại Hiệp định CPTPP. Số lượng xe ô tô được công bố từ năm 2020 đến năm 2034.
Thông tư số 04/2020/TT-BCT được xây dựng và ban hành theo đúng trình tự, thủ tục của Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Ban hành, bao gồm: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
1.2. Phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI
Theo nội dung cam kết và Nghị quyết số 
72/2018/QH14, Việt Nam áp dụng trực tiếp các quy định của Hiệp định CPTPP tại Phụ lục 02 (bao gồm các phân ngành dịch vụ trong bảng NCM I, II và III của Hiệp định. Theo đó, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực (14/01/2019) không cần xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tuy nhiên cam kết, 5 năm sau khi Hiệp định TPP có hiệu lực, việc kiểm tra nhu cầu kinh tế sẽ bị bãi bỏ. Do đó, để thực hiện cam kết này, Việt Nam cần có văn bản thông báo/hướng dẫn để cơ quan cấp phép thực hiện đúng theo cam kết hoặc phải sửa đổi, bổ sung văn bản cụ thể Nghị định số 09/2018/NĐ-CP để loại trừ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế đối với các nước thành viên CPTPP.
Đối với các nội dung bảo lưu về dịch vụ phân phối tại Phụ lục I (các biện pháp không tương thích) đã liệt kê các biện pháp hiện hành và sẽ tiếp tục được áp dụng trong đó liệt kê Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 2 năm 2007 (nay là Nghị định số 09/2018/NĐ-CP).
Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình cấp phép lập cơ sở bán lẻ và lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất phải thực hiện kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT), trừ trường hợp cơ sở bán lẻ đó có diện tích dưới 500 m2, được lập trong trung tâm thương mại và không thuộc loại hình cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini. 
Việc kiểm tra ENT được thực hiện trên cơ sở thành lập Hội đồng ENT, đánh giá ENT theo các tiêu chí cụ thể quy định tại Nghị định.
Khoản 2 Điều 23 quy định tiêu chí kiểm tra nhu cầu kinh tế như sau:
 “a) Quy mô của khu vực thị trường địa lý chịu ảnh hưởng khi cơ sở bán lẻ hoạt động;
b) Số lượng các cơ sở bán lẻ đang hoạt động trong khu vực thị trường địa lý;
c) Tác động của cơ sở bán lẻ tới sự ổn định của thị trường và hoạt động kinh doanh của các cơ sở bán lẻ, chợ truyền thống trong khu vực thị trường địa lý;
d) Ảnh hưởng của cơ sở bán lẻ tới mật độ giao thông, vệ sinh môi trường, phòng cháy chữa cháy trong khu vực thị trường địa lý;
đ) Khả năng đóng góp của cơ sở bán lẻ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực thị trường địa lý, cụ thể:
- Tạo việc làm cho lao động trong nước;
- Đóng góp cho sự phát triển và hiện đại hóa ngành bán lẻ trong khu vực thị trường địa lý;
- Cải thiện môi trường và điều kiện sống của dân cư trong khu vực thị trường địa lý;
- Khả năng và mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước.”
Điều 24 Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định cụ thể thành lập Hội đồng như sau: 
“1. Hội đồng ENT do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi lập cơ sở bán lẻ thành lập trên cơ sở đề xuất của Cơ quan cấp Giấy phép.
2. Hội đồng ENT gồm: Đại diện Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc đại diện cơ quan được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền làm Chủ tịch Hội đồng ENT; đại diện Sở Công Thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư và các sở, ban, ngành, tổ chức có liên quan làm thành viên hội đồng ENT. Trường hợp địa điểm lập cơ sở bán lẻ có vị trí tại khu vực địa lý cấp phường, xã, thị trấn tiếp giáp với tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương khác thì Hội đồng ENT phải có đại diện của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh/thành phố tiếp giáp.

3. Hội đồng ENT trên cơ sở đánh giá tiêu chí ENT quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị định này phải làm rõ sự phù hợp hoặc không phù hợp của địa điểm lập cơ sở bán lẻ để Chủ tịch Hội đồng ENT có văn bản kết luận đề xuất cho phép hoặc không cho phép lập cơ sở bán lẻ tại địa điểm đó.
Về hàng hóa phân phối, Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng và duy trì bất kỳ biện pháp nào liên quan đến dịch vụ xuyên biên giới và đầu tư các sản phẩm thuốc lá và xì gà, ấn phẩm, kim loại quý và đá quý, thuốc và dược phẩm , thuốc nổ, dầu thô và dầu đã quá chế biến. 

Thông tư số 34/2013/TT-BCT công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tại phụ lục 3 đã quy định danh mục hàng hóa không được thực hiện quyền phân phối, trong đó bao gồm các mặt hàng như sau: Lúa gạo; Đường mía, đường củ cải; Thuốc lá và xì gà; Dầu thô và dầu đã qua chế biến; Thuốc nổ; Sách, báo và tạp chí; Kim loại quý và đá quý; Vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu. 
Nghị định số 09/2018/NĐ-CP, đã cho phép tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được phép thực hiện phân phối bán lẻ dầu, mỡ bôi trơn; gạo; đường; vật phẩm đã ghi hình; sách, báo và tạp chí. Cụ thể khoản 4 Điều 9 Nghị định này quy định như sau:
“4. Trường hợp hàng hóa kinh doanh chưa được cam kết mở cửa thị trường trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên: Dầu, mỡ bôi trơn; gạo; đường; vật phẩm đã ghi hình; sách, báo và tạp chí
a) Điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này;
b) Đối với hàng hóa là dầu, mỡ bôi trơn: Xem xét cấp phép thực hiện quyền nhập khẩu, quyền phân phối bán buôn cho tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có thực hiện một trong các hoạt động sau:
- Sản xuất dầu, mỡ bôi trơn tại Việt Nam;
- Sản xuất hoặc được phép phân phối tại Việt Nam máy móc, thiết bị, hàng hóa có sử dụng dầu, mỡ bôi trơn loại đặc thù.
c) Đối với hàng hóa là gạo; đường; vật phẩm đã ghi hình; sách, báo và tạp chí: Xem xét cấp phép thực hiện quyền phân phối bán lẻ cho tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có cơ sở bán lẻ dưới hình thức siêu thị, siêu thị mini, cửa hàng tiện lợi để bán lẻ tại các cơ sở đó.”
Điều kiện tại điểm a khoản 4 Điều 9 nêu trên bao gồm:
- Có kế hoạch về tài chính để thực hiện hoạt động đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh;
- Không còn nợ thuế quá hạn trong trường hợp đã thành lập tại Việt Nam từ 01 năm trở lên.
- Phù hợp với quy định của pháp luật chuyên ngành;
- Phù hợp với mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước trong cùng lĩnh vực hoạt động;
- Khả năng tạo việc làm cho lao động trong nước;
- Khả năng và mức độ đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Như vậy, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực, các văn bản trong nước đã đầy đủ các quy định, biện pháp để áp dụng, các quy định tương thích với cam kết tại Hiệp định; đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và đảm bảo tính khả thi để thực hiện. Tuy nhiên, liên quan đến cam kết bãi bỏ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế cần phải triển khai thực hiện kể từ ngày 14/01/2024. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có văn bản trong nước để thực hiện cam kết này.
Do đó, đề nghị cần sớm có văn bản thông báo/hướng dẫn để các cơ quan cấp phép thực hiện đúng theo cam kết hoặc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 09/2018/NĐ-CP về việc loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên CPTPP.
Ngoài ra, hiện nay trong lĩnh vực phân phối hàng hóa được quy định tại Nghị định số 09/2018/NĐ-CP sau gần 6 năm thực thi đã phát sinh một số nội dung, đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số nội dung để cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Cụ thể:
i) Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
- Nghiên cứu mở rộng phạm điều chỉnh, đối tượng áp dụng các hoạt động thương mại/dịch vụ trên cơ sở gắn với nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam (Luật Đầu tư, khoản 2 Điều 1 Hiệp định GATS) sẽ phải tuân thủ các biện pháp/điều kiện cụ thể trong các lĩnh vực đó.
- Nghiên cứu, bổ sung làm rõ quan hệ với pháp luật chuyên ngành (thương mại điện tư, bán lẻ theo phương thức đa cấp, các mô hình kinh doanh mới… 
ii) Điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền quản lý
- Nghiên cứu quy định điều kiện tiếp cận thị trường, đầu tư kinh doanh cụ thể trong từng các hoạt động thương mại/dịch vụ 
- Đơn giản hóa quy trình, thủ tục cấp phép (bao gồm hồ sơ tài liệu, thời gian thực hiện…)
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trên cơ sở các văn bản, đạo của các cấp có thẩm quyền.
iii) Nội luật hóa các cam kết quốc tế: Nghiên cứu bãi bỏ kiểm tra ENT đối với các nhà đầu là thành viên Hiệp định CPTPP. Bên cạnh đó, cần rà soát việc công bố lộ trình thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động mua bán hàng hóa của doanh nghiệp FDI trên cơ sở các Hiệp định mới đã được ký kết trong thời gian qua.
iv) Các nội dung khác: Nghiên cứu bổ sung hoàn thiện một số hoạt động quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân phối để bao quát hết các hoạt động mới phát sinh trong thực tiễn thời gian qua; nghiên cứu bổ sung quy định ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu;…   
1.3. Chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Về cơ chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa:
Để các cam kết về cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa được áp dụng tại Việt Nam, ngày 22 tháng 01 năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2019/TT-BCT quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định CPTPP, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 08/3/2019. Có thể thấy, ta đã rất nỗ lực cố gắng để xây dựng và ban hành Thông tư để nội luật hóa các cam kết quốc tế trong Hiệp định CPTPP.
Thông tư số 03/2019/TT-BCT được xây dựng đảm bảo tuân theo quy trình, thủ tục xây dựng theo quy định tại Luật Ban hành VBQPPL và các văn bản hướng dẫn bao gồm Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Thông tư số 19/2018/TT-BCT ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Công Thương (hiện nay đã được thay thế bởi Thông tư số 47/2023/TT-BCT).
Nội dung Thông tư số 03/2019/TT-BCT cũng đảm bảo nội luật hóa đầy đủ các nội dung theo cam kết, thống nhất với hệ thống pháp luật trong nước và đảm bảo minh bạch, khả thi trong quá trình thực hiện. Thông tư được xây dựng đảm bảo theo quy trình, thủ tục theo quy định: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
Tuy nhiên, thời gian ban hành Thông tư chưa đảm bảo có hiệu lực cùng thời điểm với ngày có hiệu lực của Hiệp định với Việt Nam (ngày 14/01/2019). Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 08/3/2019. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu trước ngày Thông tư này có hiệu lực để được hưởng ưu đãi thuế quan theo quy định của Hiệp định và theo quy định của Nước thành viên nhập khẩu, nội dung này đã được quy định tại Điều 32 Thông tư số 03/2019/TT-BCT.
Ngày 24/3/2020, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 06/2020/TT-BCT sửa đổi , bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2019/TT-BCT. Theo đó, bổ sung thêm khái niệm “xe toàn bộ” (wholly formed) để làm rõ hơn cách áp dụng trong thực tế. Đồng thời, bổ sung thêm nội dung: Các nội dung hướng dẫn, thống nhất cách hiểu liên quan đến Quy tắc xuất xứ hàng hóa được các Nước thành viên thống nhất luân phiên hoặc thống nhất tại báo cáo các phiên họp của Ủy ban về Quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận xuất xứ và Hội đồng CPTPP trong khuôn khổ thực thi Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương là căn cứ để các cơ quan, tổ chức cấp C/O và cơ quan hải quan thực hiện. Các nội dung này được thông báo đến các cơ quan, tổ chức cấp C/O và cơ quan hải quan thông qua cơ quan đầu mối quy định tại Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc Chỉ định các cơ quan đầu mối để triển khai thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).”
- Về cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa: 
Hiệp định CPTPP cho phép các nước thành viên được lựa chọn áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa ngay khi Hiệp định có hiệu lực và cho các nước thành viên lựa chọn cơ chế này sau 1 thời gian chuyển tiếp như sau:
- Đối với tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của nhà nhập khẩu: Hiện tại, ta vẫn chưa triển khai áp dụng do đang trong quá trình xây dựng văn bản để quy định về nội dung này trong Nghị định thay thế Nghị định số 31/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa.
- Đối với tự chứng nhận xuất xứ của nhà xuất khẩu, nhà sản xuất: Các nước thành viên CPTPP được lựa chọn áp dụng sau 5 năm và gia hạn thêm 5 năm (tối đa 10 năm) kể từ khi Hiệp định có hiệu lực đối với nước thành viên đó.
Trong thời gian chuyển tiếp, các nước thành viên CPTPP được linh hoạt áp dụng song song hai cơ chế chứng nhận xuất xứ: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp C/O và Nhà xuất khẩu đủ điều kiện (approved exporter) được tự chứng nhận xuất xứ.
Kể từ khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam vào ngày 14/01/2019, Việt Nam đã thông báo với các nước CPTPP về việc áp dụng cơ chế cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp C/O trong thời gian tối đa 05 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực với Việt Nam (đến ngày 14/01/2024). Theo khoản 3 Phụ lục 3-A Hiệp định CPTPP thì nước thành viên Hiệp định có thể gia hạn áp dụng quy định tại khoản 2 thêm không quá 5 năm nếu nước thành viên đó thông báo tới các nước thành viên khác không muộn hơn 60 ngày trước khi hết thời hạn ban đầu.
Ngày 22 tháng 01 năm 2019, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 03/2019/TT-BCT quy định quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định CPTPP, sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 06/2020/TT-BCT ngày 24 tháng 3 năm 2020. Theo đó, Thông tư số 03/2019/TT-BCT không quy định nội dung về tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của thương nhân theo Hiệp định CPTPP do Việt Nam chưa áp dụng quy định này.
Việt Nam đã đề xuất gia hạn tiếp tục thực hiện cơ chế cấp C/O cho hàng hóa theo Hiệp định CPTPP cho đến khi có đủ cở sở pháp lý triển khai cơ chế nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ. Vì theo khoản 2 Điều 34 Luật Quản lý ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Công Thương chấp thuận bằng văn bản cho thương nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhưng chưa có quy định trình tự thủ tục và chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa mà Việt Nam cam kết trong các FTA.
1.4. Hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô
Trên cơ sở cam kết tại Hiệp định và Thư song phương giữa Bộ trưởng Bộ Kinh tế Mê-hi-cô và Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam, Việt Nam cần thực hiện một số nội dung như sau:
- Phân giao hạn mức ưu đãi thuế quan theo từng năm đối với: sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô sử dụng nguyên liệu (sợi và vải acrylic) quy định trong Danh mục nguồn cung thiếu hụt và sản phẩm quần áo, tã lót trẻ em theo biểu thuế quan nếu đáp ứng quy tắc xuất xứ cắt may.  
- Xây dựng hệ thống đăng ký doanh nghiệp để doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô đăng ký nhằm thực hiện cơ chế giám sát hàng dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô trong Hiệp định CPTPP.
Tại Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Nghị định liên quan đến dệt may (giám sát về dệt may và hạn ngạch dệt may với Mê-hi-cô; tự vệ đặc biệt) thời hạn hoàn thành tháng 01 năm 2019.
Khoản 1 Điều 24 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư để quy định: “Chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ”.
Khoản 2 Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan như sau: “Bộ Công Thương công bố việc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan và quyết định phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan.
Căn cứ quy định pháp luật nêu trên, để sớm hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quy định để hưởng lợi ích khi xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô nhằm triển khai Hiệp định CPTPP, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 07/2019/TT-BCT ngày 19/4/2019, của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo CPTPP và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 6 năm 2019.
Hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định, gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc. 
Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 72/2018/QH14 về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12/11/2018. Theo đó, Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/1/2019.
Theo đó, việc ban hành Thông tư này chậm hơn so với thời điểm hiệu lực của Hiệp định và phân công của Thủ tướng Chính phủ. Ngày hiệu lực thi hành của Thông tư (20/6/2019) chậm hơn gần 6 tháng so với thời điểm hiệu lực của Hiệp định.
Thông tư được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo Thông tư quy định hạn ngạch thuế quan hàng dệt may xuất khẩu sang Mê-hi-cô; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ  Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
Thông tư bao gồm 5 Chương và 12 Điều. Thông tư này Danh mục hàng dệt may áp dụng hạn ngạch thuế quan xuất khẩu sang Mê-hi-cô theo quy định của Mê-hi-cô và công bố lượng hạn ngạch thuế quan xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô năm 2019. Bộ Công Thương công bố lượng hạn ngạch thuế quan của các năm tiếp theo sau khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô.
Về cơ bản nội dung của Thông tư này tương thích cam kết;  đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đảm bảo tính khả thi để thực hiện. Quy trình, thủ tục cấp chứng thư xuất khẩu cụ thể, rõ ràng, minh bạch được thực hiện toàn trình trên hệ thống điện tử.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh hạn chế cụ thể:
Khoản 3 Điều 3 Thông tư quy định: “Bộ Công Thương công bố lượng hạn ngạch thuế quan của các năm tiếp theo sau khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô.”, tuy nhiên theo cam kết (thư song phương) không có cam kết việc thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô như quy định tại khoản này. Do đó, nội dung này cần được xem xét, sửa đổi để thực hiện theo đúng cam kết, không vướng mắc cho phía ta khi công bố lượng hạn ngạch hàng năm.
Điều 5 Thông tư, chưa hướng dẫn về việc thể hiện quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng trên C/O mẫu CPTPP. Do đó, cần nghiên cứu về việc thể hiện quy tắc cụ thể mặt hàng tại Điều 5.
Hiện nay, Bộ Công Thương đã và đang triển khai thực hiện xây dựng Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư này. Đề nghị Bộ Công Thương tiếp tục nghiên cứu và sớm ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế, vướng mắc nêu trên.
1.5. Hàng tân trang
Theo Hiệp định CPTPP: “Nếu một Bên áp dụng hoặc duy trì các biện pháp cấm hoặc hạn chế nhập khẩu hàng hóa đã qua sử dụng thì các biện pháp này sẽ không được áp dụng với hàng hóa tân trang”.
Trên cơ sở cam kết tại Hiệp định nêu trên, Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và Quyết định 121/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng Nghị định liên quan đến hàng tân trang với thời gian hoàn thành là tháng 01năm 2019.
Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện phát triển kinh tế -xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, tại phụ lục 4 ban hành kèm theo Nghị quyết này có giao cho Bộ Công Thương chủ trì xây dựng Nghị định của Chính phủ về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), thời gian trình Chính phủ trong Quý IV năm 2021.
Theo đó, Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2023/NĐ-CP ngày 02 tháng 11 năm 2023 của Chính phủ về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2024.
Trước khi xây dựng Nghị định, Bộ Công Thương đã tiến hành xây dựng đề án “nghiên cứu hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang trong bối cảnh mới” nhằm nghiên cứu quy định của pháp luật về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang, các cam kết liên quan tại Hiệp định CPTPP và kinh nghiệm quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang của các nước.
Việc xây dựng Nghị định đã tuân thủ các quy trình, thủ tục, quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định quy định chi tiết luật này.
1. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo 
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương với sự tham gia của một số bộ, ngành.
2. Xây dựng dự thảo Nghị định
3. Tổ chức tọa đàm về kinh nghiệm quản lý hàng tân trang của các chuyên gia quốc tế
4. Lấy ý kiến các bộ, ngành có liên quan và đăng tải website lấy kiến rộng rãi tổ chức, cá nhân.
5. Bộ Tư pháp đã họp thẩm định đối với dự thảo Nghị định
Hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 đối với nhóm 6 nước đầu tiên hoàn tất thủ tục phê chuẩn Hiệp định, gồm Mexico, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Canada và Úc. 

Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 72/2018/QH14 về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12/11/2018. Theo đó, Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 14/01/2019.
Theo đó, việc ban hành Nghị định 77/2023/NĐ-CP và thời điểm có hiệu lực của Nghị định này chậm hơn so với thời điểm có hiệu lực của Hiệp định là gần 2 năm, chưa đảm bảo lộ trình theo đúng cam kết.
Các nội dung nội luật hóa tại Nghị định đảm bảo tương thích với cam kết tại Hiệp định và các điều ước quốc tế có liên quan và thống nhất trong hệ thống pháp luật, các quy trình, thủ tục cấp phép mã số có sở tân trang, giấy phép nhập khẩu hàng tân trang rõ ràng, minh bạch và khả thi để thực hiện. Tại thời điểm rà soát chưa phát hiện các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đề xuất tiếp tục tăng cường phổ biến cho các thương nhân thuộc đối tượng áp dụng để thực hiện, đồng thời có kế hoạch triển khai công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
1.6. Phòng vệ thương mại
Trong lĩnh vực phòng vệ thương mại, Việt Nam cần ban hành Thông tư để nội luật hóa cam kết về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt. Theo đó, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 19/2019/TT-BCT quy định về áp dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để thực thi CPTPP vào ngày 30/9/2019, có hiệu lực từ 14/11/2019. Thông tư này hướng dẫn về biện pháp phòng vệ thương mại trong Chương 6 về phòng vệ thương mại và biện pháp khẩn cấp trong Chương 4 về dệt may của CPTPP.
Thông tư gồm 13 Điều quy định về các nguyên tắc và yêu cầu riêng về quy trình điều tra và áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hàng dệt may (áp dụng riêng cho hàng dệt may nhập khẩu từ các nước CPTPP theo cam kết tại Chương 4 Dệt may CPTPP) và các biện pháp tự vệ chuyển tiếp đối với hàng hóa nhập khẩu từ một hoặc các nước CPTPP. Đối với các vấn đề về quy trình, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ chuyển tiếp mà cam kết CPTPP không đề cập (không có yêu cầu riêng), Thông tư dẫn chiếu tới các văn bản chung về điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ theo quy định của WTO.
Với Thông tư này, trong giai đoạn chuyển tiếp, nhà sản xuất nội địa Việt Nam nếu bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng từ việc gia tăng nhập khẩu ồ ạt hàng hóa từ một hoặc các nước CPTPP do Việt Nam cắt giảm thuế quan theo cam kết CPTPP, có thể yêu cầu Bộ Công Thương thực hiện điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt nhằm bảo vệ lợi ích của mình.
Thời gian ban hành của Thông tư chậm so với Kế hoạch Chính phủ, đúng tiến độ theo Kế hoạch của Bộ Công Thương và không vi phạm yêu cầu của CPTPP về thời điểm hiệu lực do việc thực hiện các biện pháp tự vệ đặc biệt đối với hàng hóa từ các đối tác CPTPP là quyền của Việt Nam, không phải nghĩa vụ. Tuy nhiên, nếu xét từ việc đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp có thể bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp có nhu cầu áp dụng biện pháp này trước ngày Thông tư có hiệu lực vì theo cam kết CPTPP thì các biện pháp tự vệ đặc biệt chỉ có thể được thực hiện sau khi Hiệp định có hiệu lực ít nhất 6 tháng, tức là phải từ 14/7/2019. 

2. Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA

Do các nội dung cam kết trong Hiệp định UKVFTA gần như kế thừa toàn bộ các nội dung cam kết trong Hiệp định EVFTA nên các nội dung đánh giá về một số lĩnh vực cụ thể sẽ được tổng hợp xen kẽ trong phần dưới đây:
2.1. Hàng tân trang
Bộ Công Thương đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về đề nghị xây dựng Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA. Chính phủ đã thông qua lập đề nghị xây dựng Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland.
Thủ tướng Chính phủ đồng ý áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong xây dựng. Đồng thời, giao Bộ Công Thương khẩn trương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng dự thảo Nghị định, trình Chính phủ trong Qúy III năm 2023, đảm bảo tiến độ, chất lượng, đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Với cơ sở pháp lý nêu trên, nhằm thiết lập cơ chế quản lý công khai, minh bạch, quản lý chặt chẽ hàng hóa tân trang nhập khẩu, Bộ Công Thương đã xây dựng và trình Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2024/NĐ-CP ngày 17 tháng 6 năm 2024 của Chính phủ Về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len. 
Nghị định được xây dựng theo đúng quy định, trình tự, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quy định chi tiết Luật này.
Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 8 năm 2020. Theo đó, Việt Nam phải thực thi cam kết đối xử với hàng hóa tân trang giống như với hàng hóa mới tương tự từ ngày 01/8/2023 (không quá 3 năm kể từ khi Hiệp định này có hiệu lực), tuy nhiên Nghị định số 66/2024/NĐ-CP được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 17 tháng 6 năm 2024. Như vậy, việc thực thi trong nước chậm hơn gần 2 năm so với thời điểm có hiệu lực của Hiệp định.
Nội dung của Nghị định: Nghị định gồm 05 Chương, 23 Điều và 13 Phụ lục. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Nghị định: Nghị định này quy định việc quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Nghị định về quản lý nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh Châu Âu và Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len.
  Nghị định này áp dụng đối với doanh nghiệp tân trang, cơ sở tân trang, chủ sở hữu nhãn hiệu, thương nhân nhập khẩu hàng hóa tân trang và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động nhập khẩu hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA.
Nguyên tắc quản lý hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA: “Áp dụng quy định pháp luật về quản lý ngoại thương, thương mại, pháp luật chuyên ngành, pháp luật thuế, hải quan, pháp luật khác đối với hàng hóa tân trang đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 5 Nghị định này như áp dụng với hàng hóa mới cùng loại nhập khẩu vào Việt Nam.”
Doanh nghiệp tân trang hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu của hàng hóa ban đầu hoặc của hàng hóa mà hàng hóa tân trang được sử dụng làm chi tiết, linh kiện, phụ tùng thay thế chứng minh được năng lực tân trang, chế độ bảo hành, bảo dưỡng, xuất xứ của hàng hóa, quyền sử dụng nhãn hiệu theo quy định tại Nghị định được Bộ Công Thương xem xét cấp Mã số tân trang. Mã số tân trang có thời hạn hiệu lực là 5 năm kể từ ngày cấp. Theo đó, thương nhân Việt Nam chỉ được nhập khẩu hàng hóa tân trang của doanh nghiệp nước ngoài đã được Bộ Công Thương xác nhận đáp ứng các điều kiện theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA thông qua cơ chế cấp Mã số.
Về hồ sơ, trình tự thủ tục cấp phép: Nghị định quy định chi tiết, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, yêu cầu, trình tự cấp Mã số cơ sở tân trang, gia hạn hiệu lực Mã số tân trang, sửa đổi, bổ sung thông tin của tổ chức đã được cấp Mã số tân trang, đình chỉ, thu hồi Mã số tân trang;  Nghị định quy định chi tiết, rõ ràng, minh bạch về hồ sơ, trình tự cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện là hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA.
Nghị định giao các Bộ: Thông tin và Truyền thông, Y tế, Giao thông vận tải, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội và Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện là hàng hóa tân trang theo Hiệp định EVFTA và Hiệp định UKVFTA; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện hoạt động nhập khẩu hàng hóa tân trang.
Nội dung Nghị định đảm bảo tính thương thích đối với cam kết tại Hiệp định, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam; hồ sơ, quy trình, thủ tục cấp mã số tân trang và cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện là hàng hóa tân trang được quy định rõ ràng, minh bạch đảm bảo tính khả thi thực hiện.Tại thời điểm rà soát chưa phát hiện các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Đề xuất tiếp tục tăng cường phổ biến cho các thương nhân thuộc đối tượng áp dụng để thực hiện, đồng thời có kế hoạch triển khai công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
2.2. Phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI
Căn cứ cam kết của Hiệp định và Nghị quyết số 102/2020/QH14 của Quốc hội, Chương 8 về Tự do hóa đầu tư, thương mại dịch vụ và thương mại điện tử; và biểu cam kết cụ thể trong các Phụ lục của Chương 8 Hiệp định EVFTA được áp dụng trực tiếp kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với Hiệp định UKVFTA, theo Điều 2 Hiệp định, dịch vụ phân phối được kế thừa toàn bộ từ EVFTA, do đó, các nội dung cam kết trương tự như Hiệp định EVFTA.
Đối với các nội dung bảo lưu về dịch vụ phân phối đã liệt kê các biện pháp hiện hành và sẽ tiếp tục được áp dụng các biện pháp hiện hành, trong đó có việc thành lập cơ sở bán lẻ, hang hóa phân phối... các văn bản hiện nay là Nghị định số 09/2018/NĐ-CP; Thông tư số 34/2013/TT-BCT…
Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình cấp phép lập cơ sở bán lẻ và lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất phải thực hiện kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT), trừ trường hợp cơ sở bán lẻ đó có diện tích dưới 500 m2, được lập trong trung tâm thương mại và không thuộc loại hình cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini. 
Việc kiểm tra ENT được thực hiện trên cơ sở thành lập Hội đồng ENT, đánh giá ENT theo các tiêu chí cụ thể quy định tại Nghị định.
Như vậy, tại thời điểm Hiệp định có hiệu lực, các văn bản pháp luật trong nước đã đầy đủ các quy định, biện pháp để áp dụng, các quy định tương thích với cam kết tại Hiệp định; đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và đảm bảo tính khả thi để thực hiện.
Tuy nhiên, liên quan đến cam kết bãi bỏ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế cần phải triển khai thực hiện sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực:
(1) Đối với Hiệp định EVFTA: Kể từ ngày 01/8/2025, cần nghiên cứu có văn bản thông báo/hướng dẫn để các cơ quan cấp phép thực hiện đúng theo cam kết hoặc sửa đổi, bổ sung Nghị định số 09/2018/NĐ-CP về việc loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên EVFTA.
(2) Đối với Hiệp định UKVFTA: Kể từ ngày 01/5/2026, Việt Nam sửa đổi, bổ sung Nghị định số 09/2018/NĐ-CP về việc loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên UKVFTA.
2.3. Chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Để thực hiện cam kết trong Hiệp định EVFTA, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 11/2020/TT-BCT ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu: 
Khoản 1 Điều 19, Điều 24 có quy định về những chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa từ Liên minh Châu Âu nhập khẩu về Việt Nam phải nộp để được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA (bao gồm chứng từ tự chứng nhận xuất xứ phát hành bởi nhà xuất khẩu đủ điều kiện theo quy định của Liên minh châu Âu phát hành đối với lô hàng có trị giá bất kỳ; hoặc nhà xuất khẩu bất kỳ phát hành đối với lô hàng không quá 6.000 EUR).
Thông tư số 11/2020/TT-BCT được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/8/2020, đảm bảo tuân theo đúng ngày có hiệu lực của Hiệp định. Thông tư được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tưThành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy địnhVụ Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm địnhLấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
  - Đối với Hiệp định UKVFTA, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 02/2021/TT-BCT ngày 11 tháng 6 năm 2021 quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-le: Nội dung về chứng từ tự chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa từ Vương quốc Anh nhập khẩu vào Việt Nam được quy định tại khoản 1 Điều 19, Điều 24 Thông tư này (tương tự như EVFTA). 
Thông tư số 02/2021/TT-BCT được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định. Tuy nhiên, thời gian có hiệu lực của Thông tư chậm so với thời gian có hiệu lực của Hiệp định gần 6 tháng (Hiệp định có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, Thông tư có hiệu lực từ ngày 27/6/2021). 
Theo đó, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa được thực hiện bởi nhà xuất khẩu đủ điều kiện chưa được nội luật hóa do chưa có đủ cơ sở pháp lý về việc quy định thủ tục hành chính trong Thông tư theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3. Đánh giá chung về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong các FTA:

Qua phân tích, đánh giá về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi cam kết trong một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương cho thấy như sau:
- Về chỉ đạo của cấp có thẩm quyền về việc xây dựng văn bản thực thi cam kết: 
Các cấp có thẩm quyền đặc biệt quan tâm, sát sao trong việc chỉ đạo xây dựng văn bản thực thi cam kết. Đối với từng FTA thế hệ mới, Quốc hội, Chính phủ đều ban hành Nghị quyết hoặc Quyết định của Thủ tướng để đưa ra kế hoạch thực thi Hiệp định, đồng thời, từng bộ ngành lại ban hành Kế hoạch riêng để thực thi cam kết, cụ thể:
+ Hiệp định CPTPP, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội về việc phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn kiện có liên quan. Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24 tháng 01 năm 2019 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP.
+ Hiệp định EVFTA: Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 102/2020/QH14 phê chuẩn Hiệp định. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1201/QĐ-TTG ngày 06/8/2020 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện EVFTA.
+ Hiệp định UKVFTA: Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 12/3/2021 phê duyệt Hiệp định UKVFTA. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 721/QĐ-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2021 phê duyệt xây dựng Kế hoạch thực hiện UKVFTA
- Về các lĩnh vực cần phải xây dựng văn bản nội luật hóa: 
Chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực chứng nhận xuất xứ hàng hóa, quản lý hàng tân trang nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, phòng vệ thương mại, phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI, 
- Về hình thức văn bản thực thi cam kết: 
Do việc thực hiện cam kết còn phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục xây dựng theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL nên cần phải đảm bảo đúng thẩm quyền theo quy định. Về cơ bản, các hình thức để nội luật hóa cam kết trong các FTA thế hệ mới phù hợp với quy định pháp luật. 
Ví dụ: Đối với nội dung cam kết về hạn ngạch thuế quan nhập khẩu, Điều 22 Luật Quản lý ngoại thương giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Công Thương công bố việc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan và quyết định phương thức phân giao hạn ngạch thuế quan nên Bộ Công Thương ban hành Thông tư để công bố hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng, thuốc lá nguyên liệu là phù hợp với quy định. 
Đối với việc quản lý hàng tân trang nhập khẩu do có quy định về điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính nên cần thiết phải ban hành ở cấp Nghị định để tuân thủ theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL và Luật Đầu tư (chỉ được quy định thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh từ cấp Nghị định trở lên).
- Về sự phù hợp với thời gian có hiệu lực của Hiệp định: 
Nhìn chung các cơ quan quản lý nhà nước đều nỗ lực, cố gắng để ban hành văn bản kịp thời nội luật hóa cam kết, để khi cam kết có hiệu lực thì được triển khai áp dụng luôn, tận dụng các ưu đãi trong các FTA. Tuy nhiên, do yếu tố khách quan, soạn thảo văn bản trong thời gian rất ngắn nhưng cũng phải tuân theo trình tự, thủ tục quy định nên một số lĩnh vực văn bản ban hành không kịp thời có hiệu lực với cam kết. 
- Về chất lượng của các văn bản thực thi cam kết: 
Về cơ bản, tất cả các văn bản thực thi cam kết đều bám sát theo đúng nội dung, tinh thần của cam kết. Trong quá trình xây dựng, các văn bản đều được lấy ý kiến của các cơ quan đơn vị tham gia đàm phán và cơ quan thực thi pháp luật (Bộ Tài chính – Tổng cục Hải quan) để khi văn bản được ban hành khả thi và được áp dụng luôn. Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi một số từ ngữ nội luật hóa gây ra cách hiểu khác nhau nên gặp vướng mắc khi áp dụng.
- Về trình tự, thủ tục xây dụng các văn bản thực thi cam kết: 
Nhìn chung, các văn bản đều được xây dựng theo đúng quy định, quy trình, thủ tục của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản có liên quan, cụ thể: Xin chủ trương của Bộ trưởng Bộ Công Thương để xây dựng Thông tư; Thành lập Tổ soạn thảo; Lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến dự thảo Thông tư bao gồm đăng website lấy kiến theo quy định; Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương đã thẩm định; Lấy ý kiến Lãnh đạo Bộ theo quy định.
Riêng đối với quy trình xây dựng Nghị định, văn bản cũng được gửi Bộ Tư pháp thẩm định theo các nội dung theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL, cụ thể:
a) Sự cần thiết ban hành nghị định; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của nghị định;
b) Sự phù hợp của nội dung chính sách với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;
c) Tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của chính sách với hệ thống pháp luật, tính khả thi của nội dung chính sách và các giải pháp thực hiện chính sách dự kiến trong đề nghị xây dựng nghị định;
d) Tính tương thích của nội dung chính sách và các giải pháp thực hiện chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định với điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
đ) Sự cần thiết, tính hợp lý, chi phí tuân thủ các thủ tục hành chính của chính sách trong đề nghị xây dựng nghị định, nếu chính sách liên quan đến thủ tục hành chính; việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong đề nghị xây dựng nghị định, nếu chính sách liên quan đến vấn đề bình đẳng giới;
e) Việc tuân thủ trình tự, thủ tục lập đề nghị xây dựng nghị định.


 

CHƯƠNG III – ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

 

I. Đề xuất chung

1. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước là đầu mối đàm phán cam kết quốc tế

- Khi tham gia đàm phán các FTA trong thời gian tới, đề nghị các cơ quan, đơn vị đầu mối đàm phán cam kế quốc tế cần xem xét, cân nhắc thời gian cam kết có hiệu lực với phía ta để đảm bảo thời gian thực hiện quy trình, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản nội luật hóa theo đúng quy định. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với cơ quan thực thi cam kết để cơ quan chủ trì xây dựng văn bản có kế hoạch và lộ trình xây dựng văn bản.- 

2. Về phía các cơ quan, đơn vị xây dựng văn bản để thực hiện cam kết

- Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị tiếp tục tích cực và sát sao trong việc chỉ đạo xây dựng các văn bản thực thi cam kết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tận dụng các ưu đãi theo đúng thời gian cam kết.
- Bám sát nội dung các cam kết để nội luật hóa phù hợp với ngôn ngữ trong nước để việc áp dụng được hiệu quả.

3. Về kinh phí xây dựng các văn bản thực thi cam kết

Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét tăng nguồn kinh phí hỗ trợ cho các cơ quan, đơn vị xây dựng các văn bản thực thi cam kết, bố trí kinh phí để ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xây dựng VBQPPL, lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản.
4. Đề xuất các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục tăng cường phổ biến cho các thương nhân thuộc đối tượng áp dụng để thực hiện, đồng thời có kế hoạch triển khai công tác kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
 

II. Các đề xuất cụ thể

Trên cơ sở các rà soát các nội dung cam kết trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam là thành viên và đánh giá về những thuận lợi, khó khăn về trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Chương I; phân tích, đánh giá về hoạt động xây dựng văn bản pháp luật thực thi các cam kết tại Chương II, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản sau:

1. Về quy trình xây dựng, ban hành văn bản thực thi các cam kết quốc tế

Kiến nghị Bộ Tư pháp nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung trường hợp xây dựng Thông tư để nội luật hóa các cam kết quốc tế được xây dựng, soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn để đảm bảo thời gian có hiệu lực theo cam kết.

2. Về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa

Kiến nghị khẩn trương nghiên cứu, xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 31/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa để:
- Cập nhật những nội dung mới, làm cơ sở triển khai cho giai đoạn các năm tới về tự chứng nhận xuất xứ, cấp C/O điện tử, ủy quyền cấp C/O.
Cập nhật cam kết quốc tế cũng như xu hướng chứng nhận xuất xứ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, bổ sung các quy định áp dụng phổ biến trong FTA và các vấn đề pháp lý, tạo thuận lợi cho việc triển khai hướng dẫn các FTA mới sau này nhằm đảm bảo không có Thông tư nội luật hóa cam kết theo FTA trái với quy định của Nghị định;
Rà soát, loại bỏ, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và nâng cấp các thủ tục hành chính quy định trong các Thông tư và các văn bản hướng dẫn về cấp C/O lên Nghị định để tạo sự minh bạch, ổn định, phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3. Về phân phối hàng hóa của doanh nghiệp FDI

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định quy định chi tiết Luật thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng loại trừ quy định ENT đối với các nước thành viên trong các FTA thế hệ mới để thực hiện cam kết bãi bỏ quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế cần phải triển khai thực hiện sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.

4. Về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo Hiệp định CPTPP

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 3 Thông tư số 07/2019/TT-BCT ngày 19/4/2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về xuất khẩu hàng dệt may sang Mê-hi-cô theo CPTPP để thực hiện theo đúng cam kết, không vướng mắc cho phía ta khi công bố lượng hạn ngạch hàng năm. Do theo cam kết (Thư song phương) không có cam kết việc thông báo của cơ quan có thẩm quyền của Mê-hi-cô như quy định tại khoản này nhưng khoản 3 Điều 3 Thông tư số 07/2019/TT-BCT quy định việc này nên gây vướng mắc cho ta khi công bố lượng hạn ngạch thuế quan hàng năm.

5. Về hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với ô tô đã qua sử dụng trong Hiệp định CPTPP

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Thông tư số 04/2020/TT-BCT ngày 22/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về đấu giá hạn ngạch thuế quan nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng theo Hiệp định CPTPP để đảm bảo vừa tuân thủ theo cam kết quốc tế, vừa phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước về đấu giá.